Cho đến hôm tình cờ nghe cựu trưởng phòng Lao động Thương binh và Xã hội huyện - ông Hồ Nam Đông dấm dứ bên chiếu rượu: “Chuyện về nữ chúa rừng xanh là có thiệt, người còn sống hẳn hoi, nhưng tình tiết ly kỳ như chuyện bịa...”.
Bất ngờ mã não
Đội nắng gần cả buổi sáng mới vào được xã Hồng Thuỷ của huyện miền núi A Lưới, tỉnh Thừa Thiên-Huế, vậy mà hỏi tìm “nữ chúa rừng xanh” Kăn Đân, cán bộ xã duy nhất còn “sót” lại ở trụ sở cứ loay hoay bóp trán: “Kăn Đân thì ở đây có nhiều, nhưng bà Kăn Đân sống biệt lập một mình giữa rừng với rắn rít chi đó như anh nói, có thể là bà Kăn Đân ở thôn 5 của xã. Hay là mình thử vào đó”.
Thở không ra hơi vì trưa nắng, lại gần như bong chân vì lội bộ, nhưng lòng cứ khấp khởi hy vọng là mình sắp tìm đúng người, bởi cứ theo chân cán bộ xã đi dọc đường mòn hết ngọn đồi này đến ngọn đồi khác mà vẫn không thấy nhà bà Kăn Đân ở đâu. Đi mãi rồi cũng đến lúc thở hắt ra, vì trước mặt thấp thoáng một ngôi nhà sàn bốn bề huơ hoác, vắng lặng đến rợn người.
Cán bộ xã gọi cửa bằng tiếng Tà Ôi, mãi lâu mới có một người phụ nữ tầm 70 tuổi xuất hiện với nụ cười móm mém. Giật thót mình bởi bà quá đẹp, một vẻ đẹp bí ẩn, đã thế trên cổ lại đeo đến 6 chuỗi mã não. Đây là loại đá rất quý hiếm và có giá trị về mặt lịch sử, văn hoá, biểu tượng cho quyền lực và sự giàu có, cũng như địa vị xã hội cao của người Tà Ôi.
> Giải thưởng lớn cho cuộc thi ảnh Việt Nam Xanh
Nữ chúa rừng xanh
Không giật mình sao được khi hôm trước mới nghe một nhà nghiên cứu văn hoá khẳng định như đinh đóng cột rằng, ở A Lưới bây giờ, người sở hữu mã não nhiều nhất cũng chỉ khoảng 10 hạt. Thế mà người đàn bà đứng trước mặt tôi lại có đến gần cả... trăm hạt. Đang lan man thì cán bộ xã quay lại: “Đây đúng là bà Kăn Đân mà anh tìm”. Mừng không thể tả hết được bằng lời.
Huyền thoại về “nữ chúa rừng xanh” bắt đầu với lời kể, khu vực thuộc thôn 5 của xã Hồng Thuỷ bây giờ ngày xưa có tên là làng La Ngà. Ông cố của bà Kăn Đân là già làng, trong quá trình dẫn “bộ tộc” của mình du canh ở đại ngàn Trường Sơn đã phát hiện và chọn vùng đất này để định cư.
Làng La Ngà trước đây là một khu rừng nguyên sinh với rất nhiều rắn, trăn, hổ... sinh sống. Trong làng có một cái đầm lầy, bên cạnh có một cây dỗi to ba đến bốn người ôm không hết. Thân cây dỗi bị rỗng nên không biết từ bao giờ nó trở thành một ổ rắn cực lớn.
Khi mặt trời lên, rắn ở trong thân cây dỗi bò ra đi kiếm ăn nối đuôi nhau. Thời đó, gặp rắn, gặp thú rừng, người trong làng ai cũng đánh đập, xua đuổi, giết thịt... nhưng ông cố của bà Kăn Đân thì ngược lại. Không những không xua đuổi mà ông còn tìm cách giúp đỡ, giải thoát cho những con thú gặp nạn.
Để đền ơn ông, con rắn chúa đầu có sừng, cùng với chúa của nhiều loài vật khác biết nói tiếng người lúc đó quyết định “làm bạn” với ông và dạy cho ông ngôn ngữ, cách điều khiển chúng và các phương thuốc chữa bệnh bí truyền mà con người không thể nào biết được. Đặc ân này sau đó được ông truyền lại cho ông nội, cha và đến bà Kăn Đân.
Ảnh minh họa
Bi kịch tình yêu
Bà Kăn Đân không nhớ được năm nay mình bao nhiêu tuổi. Người trong làng cũng chỉ nhớ bà từng đẹp đến mức không một loài hoa nào của núi rừng Trường Sơn có thể so sánh được, và là con gái của chủ làng La Ngà giàu có nhất vùng này. Thời chống Mỹ, bà Kăn Đân là dân quân du kích.
Bà được giao nhiệm vụ nhận và giao bộ đội từ miền Bắc vào ở các trạm giao liên trên đường mòn Hồ Chí Minh. Và như đã nói ở trên, do bà học được những bài thuốc bí truyền từ cha mình nên bà được giao thêm nhiệm vụ chăm sóc và chữa các bệnh thông thường cho bộ đội.
Trong một lần nhận quân, có một bộ đội tên là Sơn, dân tộc Mường, bị sốt rét nên phải nằm lại chữa trị ở trạm giao liên và bà. Trong quá trình chăm sóc, tình cảm giữa hai người nảy nở và khi bộ đội Sơn lành bệnh, tiếp tục hành quân vào Nam thì cũng là lúc trong cơ thể nàng thôn nữ Kăn Đân mang hình hài một sinh linh mới.
“Ngày chia tay, hắn hứa sẽ quay lại tìm mình, nhưng sau mấy chục năm, con hắn đã lớn chừng ni rồi mà hắn vẫn chưa quay lại” - bà Kăn Đân vừa nói vừa chỉ tay vào một cô gái cũng rất khó đoán tuổi, bị chột mắt, vừa đi đâu về với một cái gùi trên vai. Bà tiếp: “Hắn tên là Hồ Thị Mai. Họ Hồ của Bác Hồ đó”. Mai cười ngượng nghịu: “Mình tên là Hồ Thị Hồng chớ không phải Hồ Thị Mai”.
Thời ấy, con gái Tà Ôi, lại là con trưởng làng như bà Kăn Đân, chưa chồng mà có chửa, dù “tác giả” có là bộ đội thì cũng là một sự xấu hổ rất lớn đối với dân làng và gia đình, dòng tộc. Không chịu nổi điều tiếng, bà Kăn Đân sau đó không về nhà mà ở luôn trên rừng để tiếp tục việc giao liên và chữa bệnh.
Sau chiến tranh, bà trở về làng La Ngà nhưng không ở nhà cũ mà cùng con gái đi tìm chỗ xa nhất, nơi có cái đầm lầy và cây dỗi to ba bốn người ôm, bên trong đầy rắn rít như trong truyền thuyết rồi dựng nhà ở luôn cho đến bây giờ.
“Nữ chúa rừng xanh”
Kể từ khi sống lánh xa mọi người, bà Kăn Đân đã nuôi rất nhiều trăn, rắn, chồn, khỉ, chim... để làm thú vui. Ông Hồ Nam Đông - nguyên Trưởng phòng Lao động Thương binh và Xã hội huyện A Lưới - một trong số rất ít cán bộ và người dân địa phương có giao hảo thân tình với bà nhờ những lần đi chăm lo chính sách cho người có công - kể lại: “Một dạo, trong nhà bà Kăn Đân tràn ngập thú rừng các loại. Thường chúng lang thang vào rừng, đến bữa ăn, chỉ cần một vài tiếng gọi của bà là lập tức trong nhà nhộn nhịp như một sở thú.
Tui còn nhớ có lần lên rừng, bà Kăn Đân phát hiện thấy một con khỉ con bị thương ở chân, bà đưa về nhà chữa lành bằng một bài thuốc thổi bí truyền rồi nuôi nó. Sau đó khoảng gần chục năm trước khi chết, con khỉ đó ngày nào cũng vào rừng hái trái cây ngon về cho hai mẹ con bà ăn”.
Nhắc đến chuyện thuốc thổi của bà Kăn Đân, ông Hồ Nam Đông lại kể: “Cách đây mấy năm, tui có người bạn bị gãy tay do ngã từ trên xe tải xuống đất. Thường gãy tay, đến bệnh viện băng bột phải mất cả tháng mới lành, nhưng đưa vô gặp bà Kăn Đân, bà thổi thuốc chỉ cần một tuần là lành hẳn”.
Cũng theo ông thì: “Khu vực nhà bà Kăn Đân ở có rất nhiều rắn sinh sống. Tui đã nhiều lần tận mắt thấy việc bà Kăn Đân gọi rắn về. Đặc biệt sau lưng nhà bà có một cái hồ lớn, thỉnh thoảng có một con rắn rất to về tắm, mỗi lần như rứa, hắn quậy tung toé cả hồ lên”.
Nhưng đó đã là chuyện của nhiều năm trước. Ngày tôi đến, ngôi nhà của mẹ con bà Kăn Đân đã trống trải như nhà hoang, bởi: “Phần thì bị săn bắt trộm, phần chúng nó phá quá, chịu không nổi nên mình đã đem cho người ta giết thịt hết rồi” - bà Kăn Đân nói. Con thú duy nhất còn ở lại với bà Kăn Đân là một con chim lạ, rất đẹp với màu sặc sỡ.
Thấy khách lạ, từ trên nhà nó nhảy xuống bếp, rồi từ bếp biến mất vào trong những lùm cây sau nhà. Phải đến khi trên tay bà Kăn Đân cầm thức ăn, miệng gọi “kruýt”, “kruýt” cùng những lời thì thầm, nghe dịu dàng như mẹ gọi con gái, nó mới chịu về và sà lên người bà Kăn Đân để mổ lấy thức ăn.
Hỏi bí quyết làm sao để có thể nuôi và gọi được chim thú, mãi bà cũng chỉ nói mỗi một câu: “Có bí quyết chi mô, do mình có cái tâm nên nuôi chúng thì chúng quý mến mình thôi”. Lại gặng hỏi chuyện bài thuốc thổi, mãi bà cũng chỉ cười: “Không nói được mô”.
Sau những huyền thoại, bà Kăn Đân còn có một cuộc sống đời thường đầy bao dung và khá lạ trong mắt nhiều người. Dọc đường đi, cán bộ xã cứ nhắc mãi: “Mẹ con bà Kăn Đân lạ lắm”. Lạ là bởi hai mẹ con làm quần quật từ sáng đến đêm, nhưng làm được thứ gì cũng đều không để dành mà lặn lội đem cho bà con họ hàng và hàng xóm. Thấy quanh vùng, nhà ai khó khăn là mẹ con bà tự nguyện đến giúp đỡ. Ai ốm đau, dù xa xôi tới mấy bà cũng tìm đến chữa bệnh.
Bởi vậy dù sống biệt lập một mình, nhưng quanh vùng này, ai cũng quý mến và chịu ơn mẹ con bà. Bà là người có công với cách mạng (Huân chương Kháng Chiến hạng Nhất), đã không biết bao lần, địa phương vận động bà rời bỏ chỗ ở heo hút hiện nay để đến một chỗ gần đường, gần khu dân cư hơn, nhưng bà kiên quyết không đi...
Bà Kăn Đân không đi, không thay đổi, chuyện cũng dễ hiểu, nhưng còn con gái bà. Cũng như mẹ, Hồng không nhớ được là năm nay mình bao nhiêu tuổi. Và từ khi ra cho đến giờ, Hồng cứ luẩn quẩn bên mẹ nên chưa bao giờ bước chân ra khỏi địa phận làng La Ngà heo hút để biết xem cuộc sống bên ngoài như thế nào.
Lạ là khác mẹ, cô không hề biết “giao tiếp” với chim thú, không hề biết thuốc thổi chữa bệnh. Lạ nữa là khi tôi hỏi chuyện chồng con, Hồng trả lời: “Không, vì lấy chồng rồi phải theo chồng, sẽ không còn ai chăm sóc mẹ”. Khi nói câu này, Hồng giấu mặt vào sau lưng mẹ thật lâu, nên tôi không thể nào biết được lúc đó cô buồn hay vui...
Theo Lao động