Bệnh bạch hầu là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, mức độ lây lan nhanh chóng qua đường hô hấp hoặc qua tiếp xúc trực tiếp với các dịch tiết từ niêm mạc mũi họng của bệnh nhân hoặc người lành mang trùng khi ho, hắt hơi, đặc biệt trong khu vực dân cư đông đúc hoặc nơi có điều kiện vệ sinh không đảm bảo.
Trẻ em và người lớn đều có thể mắc bạch hầu. Trẻ em dưới 15 tuổi chưa được chích ngừa sẽ bị mắc bệnh trước tiên. Bệnh còn có thể xảy ra ở người lớn nếu họ không được miễn dịch.
Bệnh có biểu hiện ban đầu với các dấu hiệu sốt nhẹ, đau họng, ho, nói khàn tiếng, chán ăn. Triệu chứng điển hình của bệnh là giả mạc hai bên thành họng có màu trắng ngà, dai, dính khi bóc dễ bị chảy máu; vì thế bệnh được gọi là “bạch hầu”.
Những đối tượng sau dễ mắc bệnh bạch hầu:
- Trẻ em và người lớn không được tiêm vacxin bạch hầu. Cá biệt những trường hợp dù đã tiêm chủng, nhưng sức đề kháng yếu không sinh được kháng thể, hoặc những người đã tiêm chủng quá lâu, nồng độ kháng thể trong máu giảm thấp vẫn có thể bị mắc bệnh bạch hầu.
- Những người sống trong điều kiện đông đúc hoặc mất vệ sinh.
- Bất cứ ai đi du lịch đến một khu vực đang có dịch bệnh bệnh bạch hầu.
Người bị bệnh bạch hầu biểu hiện như thế nào?
Trung bình, sau khi hít phải vi khuẩn 2-5 ngày, người bệnh sẽ phát bệnh. Tùy thuộc vào vị trí vi khuẩn gây bệnh, sẽ có các biểu hiện khác nhau:
Bệnh bạch hầu mũi trước: Bệnh nhân sổ mũi, chảy mũi ra chất mủ nhầy đôi khi có lẫn máu. Khi khám thầy thuốc có thể thấy màng trắng ở vách ngăn mũi. Thể bệnh này thường nhẹ do độc tố vi khuẩn ít thâm nhập vào máu.
Bệnh bạch hầu họng và amiđan: Bệnh nhân mệt mỏi, đau cổ họng, chán ăn, sốt nhẹ. Sau 2-3 ngày, sẽ xuất hiện một đám hoại tử tạo thành lớp giả mạc màu trắng xanh, dai và dính chắc vào amiđan, hoặc có thể lan rộng bao phủ cả vùng hầu họng. Thường thể bệnh này các độc tố ngấm vào máu nhiều và có thể gây tình trạng nhiễm độc toàn thân. Một số bệnh nhân có thể sưng nề vùng dưới hàm và sưng các hạch vùng cổ làm cổ bạnh ra như cổ bò. Những trường hợp nhiễm độc nặng bệnh nhân sẽ phờ phạc, xanh tái, mạch nhanh, đờ đẫn, hôn mê. Các bệnh nhân này nếu không được điều trị tích cực có thể tử vong trong vòng 6-10 ngày.
Bạch hầu thanh quản: Đây là thể bệnh tiến triển nhanh và rất nguy hiểm. Bệnh nhân thường biểu hiện bằng dấu hiệu sốt, khàn giọng, ho ông ổng. Khi khám, bác sĩ có thể thấy các mảng giả mạc tại ngay thanh quản hoặc từ hầu họng lan xuống. Nếu không được xử trí kịp thời, các giả mạc này có thể gây tắc đường thở làm bệnh nhân tử vong nhanh chóng.
Bạch hầu các vị trí khác: Thường rất hiếm gặp và nhẹ, vi khuẩn bạch hầu có thể gây loét ở da, niêm mạc như niêm mạc mắt, âm đạo hay ống tai.
Phòng ngừa bệnh bạch hầu bằng cách nào?
Hiện nay, đã có thuốc để điều trị bệnh bạch hầu, tuy nhiên, trong giai đoạn tiến triển, bệnh bạch hầu có thể gây hại cho tim, thận và hệ thần kinh của người bệnh. Ngay cả khi điều trị, bệnh bạch hầu có thể gây tử vong với tỷ lệ 3% những người mắc bệnh bạch hầu tử vong, tỷ lệ này còn cao hơn ở trẻ em dưới 15 tuổi.
Bệnh bạch hầu có thể phòng ngừa được bằng biện pháp tiêm phòng vắc xin.
Trang Dung (t/h)