Thông tin với báo chí chiều 9/7, ông Nguyễn Trung Cấp - Phó Giám đốc Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương cho biết chiều 7/7 bệnh viện tiếp nhận nữ bệnh nhân B. (18 tuổi, trú Nghệ An) dương tính với bệnh bạch hầu.
Ông Cấp cho hay, may mắn tại thời điểm tiếp nhận bệnh nhân chưa xuất hiện các triệu chứng lâm sàng. Các bác sĩ đã điều trị dự phòng sớm theo phác đồ, sử dụng kháng sinh diệt vi khuẩn, ngăn ngừa vi khuẩn phát triển…
"Do chưa có tình trạng biến chứng nên bệnh nhân đã nhanh chóng được điều trị ổn định và được chuyển về địa phương tiếp tục cách ly, theo dõi", ông Cấp nói.
Phó Giám đốc Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương cũng cho biết, những năm gần đây bệnh viện vẫn tiếp nhận ca mắc bệnh bạch hầu từ tuyến dưới. Năm 2023, bệnh viện cũng tiếp nhận một số bệnh nhân tại tỉnh Hà Giang, Điện Biên, phần lớn ca mắc nhẹ.
Sau thời gian ủ bệnh 2-5 ngày, khởi đầu bệnh nhân mắc bệnh bạch hầu sẽ xuất hiện các triệu chứng giống như viêm họng như đau họng, ho, một số bệnh nhân nuốt khó, nuốt đau, sốt. Đa số bệnh nhân sau đó dần hồi phục. Một số bệnh nhân có tiến triển bệnh bạch hầu nặng và ác tính.
Do đó, khi xuất hiện các biểu hiện nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu tốt nhất người dân nên đến cơ sở y tế để được theo dõi và điều trị kịp thời.
Theo bác sĩ, biến chứng nghiêm trọng của bệnh bạch hầu đó là giả mạc phát triển nhanh, lan tỏa xuống đường hô hấp gây ra tình trạng bít tắc đường hô hấp. Hoặc những mảnh giả mạc của bạch hầu có thể rụng, khiến người bệnh hít phải gây sặc, tắc đường thở.
Nguy cơ biến chứng nguy hiểm hơn đó là viêm cơ tim, bởi độc tố bạch hầu gây tác dụng mạnh đối với cơ tim. Những bệnh nhân bệnh bạch hầu thể ác tính có thể dẫn đến viêm cơ tim, suy tim cấp... Nặng hơn nữa có thể dẫn đến sốc, suy đa tạng, tử vong. Ngoài ra, có thể gặp biến chứng trên thận, gan, tuyến thượng thận…
Ông Cấp nhận định bệnh bạch hầu là một bệnh nguy hiểm, đặc biệt với nhóm chưa tiêm chủng đầy đủ hoặc hiệu lực bảo vệ vắc-xin đã hết, nguy cơ tử vong trong trường hợp này là 10-20%.
Tỉ lệ tử vong bệnh bạch hầu cao hơn nhiều so với Covid-19. Tuy nhiên, nguy cơ lây nhiễm thấp hơn rất nhiều. Bệnh chủ yếu lây qua đường hô hấp khi tiếp xúc với giọt bắn của người nhiễm bệnh lúc ho, hắt hơi.
Bệnh có thể lây qua con đường gián tiếp khi tiếp xúc với đồ vật bị nhiễm dịch mũi hầu từ người bệnh. Hoặc lây nhiễm khi tiếp xúc với vùng da tổn thương do bạch hầu.
Theo ông Cấp, bệnh có thể xuất hiện ở rải rác ở các vùng, nhưng không thể gây ra một đại dịch như Covid-19. Vì vậy, người dân không nên quá lo lắng.
Để phòng bệnh bạch hầu, Phó Giám đốc Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương nhấn mạnh quan trọng nhất vẫn là tiêm chủng vắc-xin. Hiệu lực bảo vệ của vắc-xin phòng bệnh bạch hầu khoảng 10 năm. Sau 10 năm hiệu lực của vắc-xin giảm dần, có những người sau thời gian nhiều hơn mới sụt giảm.
"Người dân cần tiêm nhắc lại vắc-xin sau 10 năm để phòng bệnh", ông Cấp nói và cho hay sau khi nhiễm bệnh bạch hầu vẫn có nguy cơ mắc bệnh lại, người dân không nên chủ quan, cần chú ý phòng tránh bệnh.
PGS.TS Trần Đắc Phu - nguyên Cục trưởng Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế) cũng cho biết, những trường hợp đã tiếp xúc với ca bệnh vừa qua cũng không nên quá lo lắng.
Những trường hợp tiếp xúc gần với ca bệnh sẽ được uống thuốc kháng sinh dự phòng để diệt ngay vi khuẩn bạch hầu, vừa không phát bệnh nếu không may nhiễm vi khuẩn và không trở thành nguồn lây bệnh cho người khác.
Để chủ động phòng chống bệnh bạch hầu, Cục Y tế dự phòng khuyến cáo người dân cần đưa trẻ đi tiêm chủng tiêm vắc-xin phòng bệnh bạch hầu theo lịch tiêm chủng đầy đủ, đúng lịch;
Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng; che miệng khi ho hoặc hắt hơi; giữ vệ sinh thân thể, mũi, họng hàng ngày; hạn chế tiếp xúc với người mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh;
Đảm bảo nhà ở, nhà trẻ, lớp học thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh sáng. Khi có dấu hiệu mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu phải được cách ly và đưa đến cơ sở y tế để được khám, điều trị kịp thời;
Người dân trong ổ dịch cần chấp hành nghiêm túc việc uống thuốc phòng, tiêm vắc-xin phòng bệnh theo chỉ định và yêu cầu của cơ quan y tế.