The New York Times nhận định, đầu những năm 1960, khi đó GS Võ Quý mới chỉ là một nhà nghiên cứu trẻ, nhưng ông đã mạnh dạn đề xuất, thuyết phục thành công các lãnh đạo hàng đầu Việt Nam, trong đó có Chủ tịch Hồ Chí Minh, để xây dựng một khu đất gần thủ đô Hà Nội trở thành công viên quốc gia đầu tiên của Việt Nam.
“Họ đã lắng nghe những hiểu biết của chàng trai này về tự nhiên Việt Nam. Tôi cho rằng, đó là một dấu hiệu về tài năng của anh ấy”, GS Pamela McElwee của đại học Rutgers, một chuyên gia về lịch sử môi trường Việt Nam cho hay.
Trong sự nghiệp nghiên cứu hơn nửa thế kỷ của mình, GS Võ Quý đã có nhiều công trình nghiên cứu tiên phong về các loài động vật hoang dã ở Việt Nam. Ông cũng đóng góp công lớn trong việc khôi phục lại môi trường sống nhiệt đới đã bị phá hủy bởi chất độc da cam trong chiến tranh Việt Nam.
David Hulse, Chủ tịch hội Môi trường thế giới WWF tại Hà Nội từ năm 1992 đến năm 1999 đã từng nhận định: “Chúng ta thực sự có thể gọi ông ấy là “cha đẻ” của ngành bảo tồn thiên nhiên ở Việt Nam”.
Nói về những đóng góp của GS Võ Quý đối với ngành khoa học môi trường, GS người Mỹ McElwee cho hay, những nghiên cứu về loài chim ở Việt Nam của ông Võ Quý đến nay vẫn còn rất mới mẻ.
“Ông đã tiến hành nghiên cứu thực địa trong suốt chiến tranh và cho xuất bản cuốn sách đầu tiên vào năm 1975. Điều đáng quý nhất ở GS Võ Quý chính là việc ông đã phát triển kết quả nghiên cứu của mình, không giới hạn ở lĩnh vực này hay chỉ trong phòng thí nghiệm”, chuyên gia về lịch sử môi trường Việt Nam nói.
“GS Võ Quý còn tham gia vận động chính sách, trong đó có kế hoạch hành động về đa dạng sinh học đầu tiên của Việt Nam nhằm tìm cách cân bằng giữa sự phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường”, The New York Times biết.
Chủ tịch hội Môi trường thế giới WWF tại Hà Nội từng đánh giá Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường do GS Võ Quý thành lập vào năm 1985 được coi là “cầu nối” đầu tiên kết nối các nhà khoa học Việt Nam và các nhà khoa học quốc tế.
GS Võ Quý là người đi đầu trong những nỗ lực nhằm chuyển đổi các loại cây rừng ở Việt Nam, đặc biệt là rừng ngập mặn đã bị phá hủy bởi chất độc màu da cam, chất độc mà quân đội Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong chiến tranh.
Ông cũng là người đóng góp lớn trong việc giúp Việt Nam và Mỹ cùng ngồi đàm phán giải quyết vấn đề dioxin.
“Cuộc đàm phán rất phức tạp bởi từ lâu Mỹ đã khẳng định mối liên hệ giữa vấn đề phơi nhiễm dioxin và các vấn đề sức khỏe chưa được chứng minh khoa học, ngay cả khi Mỹ từng tài trợ cho các dự án y tế mà Việt Nam gọi là nạn nhân dioxin. Tuy nhiên, GS Võ Quý đã giúp cải thiện các cuộc đàm phán này, ông tập trung vào thảo luận về vấn đề môi trường sau chiến tranh thay vì vấn đề con người”, Susan Hammond, Giám đốc Dự án Di sản chiến tranh, chuyên giải quyết các hậu quả về môi trường và sức khỏe sau chiến tranh ở Việt Nam và Lào cho hay.
Cuối sự nghiệp của mình, GS Võ Quý từng tổ chức một chương trình nổi tiếng về môi trường trên Đài Truyền hình Việt Nam, trẻ em biết tới ông với biệt danh “GS chim”.
GS McElwee, tác giả cuốn sách Forest Are Gold: Trees, People and Environmental Rule in Vietnam cũng ca ngợi những đóng góp của ông trong lĩnh vực hoạch định chính sách.
GS Võ Quý sinh ngày 31/12/1929 ở Hà Tĩnh, từng học tập, nghiên cứu tại Trung Quốc sau đó lấy bằng Tiến sĩ ở đại học Moscow.
Phương Anh