"Giáo sư Lavalatra"
Dù đã được nghe kể trước, nhưng đến nhà ông, chúng tôi vẫn không khỏi ngạc nhiên bởi căn nhà ba gian quá bé nhỏ, nếu không nói là tuềnh toàng. Ngoài bộ bàn ghế đi văng cũ kỹ, chiếc tivi từ đời "cổ lai hy" thì chẳng có gì đáng giá. Ngay như chiếc tivi ấy cũng là đồ cũ mà con gái ở Điện Biên xin được từ một người quen gửi về biếu ông.
Ông Lương Văn Trưng sinh năm 1932 trong một gia đình nghèo nhưng có truyền thống hiếu học. Ngay từ năm 10 tuổi, ông đã nổi tiếng thông minh, đặc biệt rất giỏi tiếng Pháp. Gia cảnh túng thiếu, nhà có tới 7 anh em nhưng vì học rất giỏi nên mỗi năm ông nhận được hàng tá bút, sách và được ưu tiên đong thóc.
Rất nhiều sách có giá trị được ông Lương Văn Trưng tìm về và bảo quản cẩn thận.
Mới 14 tuổi, nhưng ông phải khai tăng lên 2 tuổi để đủ điều kiện thi Certificat (theo quy định 16 tuổi mới được thi Certificat) và đỗ bằng Diplôme khi 16 tuổi. Không phải dân khoa học, nhưng bị cuốn vào khí thế hừng hực thời kỳ miền Bắc xây dựng CNXH 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965). Lúc này, ông cũng mày mò nghiên cứu quá trình chuyển hóa phân tử Ion trong đất, ứng dụng trực tiếp vào đời sống nông nghiệp của nông dân. Công trình khoa học "Đời sống cây trồng" của ông được Hội đồng khoa học duyệt sau 8 ngày và đã được thực nghiệm tại quê lúa Thái Bình. Trong đó, ông đặc biệt chú ý tới phương pháp truyền đạt tới người nông dân. Bản thân ông hiểu, nếu dập khuôn kỹ thuật, kinh nghiệm của các nước vào Việt Nam thì không phù hợp với trình độ dân trí của người nông dân Việt Nam.
Trong các buổi thuyết trình bảo vệ công trình khoa học với nhà khoa học nước ngoài, vì cái tên Lương Văn Trưng phát âm khó, nên ông đã nghĩ ra tên Lavalatra (La: Lương, Va: Văn, Tr: Trưng), vừa chơi chữ trong tiếng Pháp (giáo sư), lại vừa viết tắt tên ông cho đồng nghiệp nước ngoài dễ gọi. Biệt hiệu "Giáo sư Lavalatra" bắt đầu từ đó.
Với bản tính giản dị, nhiều người ngạc nhiên, đến khó tin khi thấy "Giáo sư Lavalatra" ăn mặc đơn giản, thậm chí còn có vẻ rất nghèo khổ. Có lần ông dạy ở trường Cao đẳng Sư phạm Thái Bình về, một giáo viên ở gần đó bán tin bán nghi bám theo hỏi thăm. Lúc đầu ông tưởng anh ta cần giúp đỡ việc gì đó nhưng hóa ra anh này đến chỉ vì muốn được gặp mặt ông. Anh ta nhìn ông hết lượt từ đầu đến chân, rồi bảo: "Người ta đồn cụ tên là "Lanxa", hay xuất hiện trên báo cùng mấy ông Tây to cao, nhưng tôi không tin, hôm nay mới được trực tiếp. Quả thật, họ nói chẳng sai. Ông giản dị hơn cả tôi nghĩ!".
Truyền "lửa" cho học sinh nghèo
Năm 1980, thầy giáo Lương Văn Trưng nghỉ dạy học ở trường Nghiệp vụ công nghiệp địa phương Nam Hà và về quê mở lớp dạy ôn thi miễn phí cho rất nhiều con em thương bệnh binh, nhà nghèo của Thái Bình. Qua giới thiệu của người quen, cũng là người từng chịu ơn mình đang làm lãnh đạo tại sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Thái Bình, ông nhận lời dạy tiếng Anh, tiếng Pháp nâng cao cùng tiếng Latinh cho đội ngũ bác sĩ, kỹ sư của tỉnh, dạy bồi dưỡng văn, ngoại ngữ cho giáo viên văn PTTH trong tỉnh.
Vì là thầy của thầy, nên ông nhất loạt được học trò đang đứng trên bục giảng gọi là ông, xưng con. Hết khóa học ấy, ngồi rỗi không chịu được, ông tập trung 5 - 6 học sinh là con cháu của các bậc lão thành cách mạng vốn là người quen của mình, ôn thi tốt nghiệp PTTH và thi đại học. Ông dạy cả toán, lý, hóa lẫn văn, sử, địa, đặc biệt là hai môn tiếng Anh, tiếng Pháp.
Những cuốn sách quý từ những năm 1960 được ông sưu tầm và lưu giữ.
Mỗi năm, ông cũng chỉ nhận dạy một nhóm học sinh, chủ yếu là ưu tiên con em thương binh, liệt sỹ chăm học nhưng nhà nghèo. Vì "Lớp đông quá thì sức tôi không kham nổi", ông nói. Ông thường bảo học trò, nếu chỗ nào không hiểu cứ nói để ông giảng lại.
Lớp học đặt tại trường PTTH Tiên Hưng (huyện Đông Hưng). Mỗi năm cũng chỉ vài tháng giáp kỳ thi, ông - trò mới ôn luyện. Hầu hết những học sinh học lớp ôn thi của ông đều đỗ đạt cao. Dạy ở trường PTTH Tiên Hưng, cách nhà chừng 5km, nhiều giáo viên và học sinh muốn được đưa ông về bằng xe máy nhưng ông không muốn làm phiền ai, vẫn kẽo kẹt đạp xe đạp. Mãi về sau, sợ sức yếu quá phải đi xa, ông mới cho học trò chở về bằng xe máy. Nhiều người bảo ông là dở, là dại dột, bởi trong khi người ta dạy luyện thi đại học để có thêm thu nhập thì ông cứ dạy không công.
Ông thường căn dặn học trò là ông con sống với nhau chân thật, nhớ đến nhau là được, đừng quà cáp. Một lần có phụ huynh biếu mâm vải thiều, ông cũng không nhận. "Cuộc sống đến thế là đủ rồi. Tôi có chế độ về hưu mất sức của mình". Gọi là có chế độ, chứ do vì về hưu mất sức năm 1980 nên chỉ có sổ gạo chứ không có lương, sau đó mới được 45.000 đồng/tháng rồi tăng lên 50.000 đồng, hiện tại cũng chỉ được hơn 300 nghìn đồng/tháng. "May mắn là tôi có người vợ rất tốt, bà ấy không hề kêu ca gì", ông nói.
Đến nay, ông cũng không thể nhớ nổi mình có bao nhiêu học trò, vì mấy chục năm cần mẫn đưa đò, vị học trò lớn tuổi nhất của ông là nhà thơ Trần Đình Động khi ấy cũng gần 80 tuổi, lớn hơn cả thầy. Theo cuốn sổ tay nhỏ của ông, đến nay đã có hàng trăm học sinh, con em thương bệnh binh, lão thành cách mạng, con nhà nghèo đã bước vào giảng đường đại học, cao đẳng từ lớp ôn thi của ông giáo làng Lương Văn Trưng.
Sưu tầm cả những cuốn sách từng qua tay đồng nát
Một điều đáng khâm phục ở ông là hiện ông có một kho sách quý do chính tay ông nâng niu cất giữ từ những năm thực dân Pháp đưa quân ra đánh chiếm các tỉnh miền Bắc. Kho sách ấy, một phần ông sưu tầm và phiên dịch từ tiếng Anh, tiếng Pháp dịch sang tiếng Việt, trong đó hiện còn rất nhiều cuốn có giá trị. Trong số đó có bộ sách tiếng Pháp xuất bản cách đây 60 - 70 năm, bìa bọc lụa rất quý từng qua tay đồng nát, rồi lọt vào tủ sách của một thầy giáo khác, nhưng một vị giám đốc Sở ở tỉnh bạn đã kỳ công mang về biếu ông.
Hiện nay, tủ sách của ông có hơn 4 vạn cuốn sách, trong đó có nhiều cuốn sách hiếm như bộ "Những người khốn khổ" bằng tiếng Pháp. Toàn bộ số sách ấy được ông lưu giữ trong 72 hòm tôn để tại một khu nhà riêng và cả cạnh giường nằm... Ai cần sách, ông đều cho mượn: "Chỉ mong mọi người giữ gìn cẩn thận, để khi người khác cần thì có sách cho họ mượn, vì đó cũng không phải sách của tôi mà của học trò nhiều thế hệ gửi tôi. Tôi chỉ giữ hộ cho thôi" - ông nói.
Mấy năm nay, do sức khỏe yếu nhiều, nên ông Trưng đã thôi dạy học. Tuy nhiên, hàng ngày ông vẫn cặm cụi biên soạn, ghi chép tư liệu bài giảng để tập hợp thành sách đem đi in, nhất là sách về ngoại ngữ. "Hiện nay nhiều sách ngữ pháp quá, người học và người dạy đều khổ, nên tôi tổng hợp lại cho có hệ thống, trình độ nào cũng có thể hiểu được. Tôi lo nhất là mình yếu thôi. Nhiều người bảo tôi, cứ hoàn thành đi, họ sẽ in giúp", ông tâm sự.
Tết nào cũng có học trò về thăm "Tài sản lớn nhất đời ông là tình cảm của các thế hệ học trò" - ông giáo làng Lương Văn Trưng từng được GS. Hoàng Như Mai bảo vậy. Đến nay, ông cũng không thể nhớ nổi mình có bao nhiêu học trò, bao nhiêu người đã đỗ đạt cao. Ông chỉ biết rằng, sau mấy chục năm cần mẫn đưa đò, đến nay vẫn có nhiều học trò ở xa tìm về Thái Bình thăm ông, nhất là dịp tết. Trong đó có cả những nhà văn, nhà thơ danh tiếng. |
Cao Tuân