Theo Sci-News, một nhóm các nhà khoa học từ New Zeland, Anh, Mỹ đã phân tích mẫu vật thuộc về 6 cá thể khổng lồ mang hình dáng chim cánh cụt được khai quật từ Hệ tầng Moeraki ở Đảo Nam - New Zealand.
Tuy nhìn giống chim cánh cụt nhưng chúng không phải những con vật nhỏ bé đáng yêu như chúng ta thấy ngày nay, mà sở hữu kích thước "quái vật". Con lớn nhất ước tính nặng tới 148-160 kg khi còn sống, tức gấp đôi một người trưởng thành. Mẫu vật nặng nhất đó được đặt tên loài Kumimanu fordycei, một loài hoàn toàn mới trong dòng họ chim cánh cụt và có thể là loài lớn nhất trong cây gia phả của sinh vật này từ thời cổ đại.
Năm mẫu vật còn lại nhỏ hơn một chút, đều cùng thuộc một loài, được đặt tên là Petradyptes stonehousei. Những con Petradyptes stonehousei nặng khoảng 50 kg, chỉ lớn hơn một chút so với chim cánh cụt hoàng đế còn sống hiện nay.
Cả hai đều là sinh vật thuộc thế Paleocene của kỷ Cổ Cận (Paleogen), là kỷ nằm giữa "thời hoàng kim của khủng long" - kỷ Phấn Trắng - và kỷ Đệ Tứ mà chúng ta đang sống. Như vậy, niên đại của hai loài quái vật chim cánh cụt này khoảng 55 đến 60 triệu năm về trước. Hai loài mới có khả năng nằm trong số những loài chim cánh cụt cổ đại đầu tiên, vì vậy khám phá này có thể làm sáng tỏ cách chim cánh cụt khổng lồ tiến hóa theo thời gian.
"Kumimanu fordycei và Petradyptes stonehousei có xương chân chèo tương đối nguyên thủy, giống với những loài chim có thể bay trên không trung và dùng cánh để đẩy cơ thể khi bơi dưới nước, chẳng hạn như chim anca và hải âu cổ rụt. Tuy nhiên, cả hai loài chim cánh cụt mới đều không thể bay", Daniel Ksepka, nhà cổ sinh vật học tại Bảo tàng Bruce ở Greenwich, người dẫn đầu nghiên cứu, cho biết.
Chim cánh cụt có thể đã mất khả năng bay để bơi lặn vào khoảng 60 triệu năm trước, không lâu trước khi hai loài mới xuất hiện. Vì vậy, những con chim cánh cụt đầu tiên này vẫn chưa phát triển chân chèo hiệu quả như được nhìn thấy ở những con chim cánh cụt về sau.
Kích thước của Kumimanu fordycei cho thấy xu hướng khổng lồ đã phát triển từ rất sớm trong dòng dõi chim cánh cụt. Điều này có thể để phù hợp với thế giới cổ xưa mà chúng tồn tại, một thế giới còn đầy các quái vật cỡ lớn: Kích thước cơ thể lớn hơn cho phép bắt các con mồi lớn hơn, giữ ấm cơ thể tốt hơn trong vùng nước lạnh.
Các nhà nghiên cứu cũng cho rằng có thể kích thước quái vật này đóng vai trò quan trọng trong việc giúp giống loài này lan rộng từ New Zealand đến các nơi khác trên thế giới.
Nghiên cứu vừa công bố trên tạp chí khoa học Journal of Panleontology.
Minh Hoa (t/h)