Ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam Việt Nam (PVcomBank) vừa công bố báo cáo tài chính hợp nhất quý II/2024 ghi nhận thu nhập lãi thuần gần 763 tỷ đồng, tăng gần 5 lần so với cùng kỳ năm trước.
Các khoản thu ngoài lãi của ngân hàng tăng giảm không đồng nhất với khoản lãi thuần từ hoạt động dịch vụ nhích nhẹ 1 tỷ đồng so với cùng kỳ. Lãi thuần từ hoạt động khác của ngân hàng tăng 4 lần lên 92 tỷ đồng.
Mảng mua bán chứng khoán kinh doanh cũng ghi nhận lãi thuần tăng 66% so với quý II/2023 lên gần 98 tỷ đồng. Ngược lại, hoạt động mua bán chứng khoán đầu tư ghi nhận khoản lãi giảm 7% xuống còn 764 tỷ đồng.
Kết quả, PVcomBank vẫn thu về khoản lãi thuần từ hoạt động kinh doanh 554 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ lỗ 29 tỷ đồng.
Theo PVcomBank, ngân hàng tái cấu trúc lại tài sản sinh lời, cơ cấu danh mục đầu tư cả cổ phiếu và trái phiếu nên thu thuần từ kinh doanh chứng khoán tăng mạnh đồng thời bổ sung trích lập dự phòng rủi ro tín dụng nên chi phí dự phòng rủi ro tăng mạnh.
Luỹ kế 6 tháng đầu năm 2024, PVcomBank ghi nhận thu nhập lãi thuần tăng 6,6 lần lên gần 1.012 tỷ đồng.
Ngân hàng báo lãi ròng trước thuế gần 70 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế tương ứng 65 tỷ đồng, tăng 1,9 lần so với 6 tháng đầu năm 2023 nhờ khoản lãi tăng gấp 43 lần cùng kỳ lên 307 tỷ đồng trong quý I/2024.
Năm 2024, PVcomBank đặt mục tiêu lợi nhuận trước thuế hợp nhất 108,5 tỷ đồng. Như vậy, kết thúc quý II/2024, ngân hàng đã đạt được 64,5% chỉ tiêu đề ra.
Tại thời điểm ngày 30/6/2024, PVcombank ghi nhận tổng tài sản ở mức 218.429 tỷ đồng, giảm 1,17% so với đầu năm.
Tiền gửi tại NHNN của ngân hàng đã giảm mạnh 2,5 lần xuống gần 5.720 tỷ đồng. Cho vay khách hàng tăng 5% so với đầu kỳ lên 101.797 tỷ đồng. Tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng giảm 1,4% xuống còn 175.584 tỷ đồng.
Về chất lượng nợ vay, tại thời điểm cuối tháng 6/2024, tổng nợ xấu tại PVcomBank là 3.552 tỷ đồng, giảm 5,3% so với khoản nợ xấu 3.752 tỷ đồng hồi cuối năm 2023. Tỉ lệ nợ xấu giảm từ 3,81% về còn 3,42%.
Trong đó, nợ dưới tiêu chuẩn (nợ nhóm 3) giảm mạnh 2 lần xuống 334 tỷ đồng. Nợ nghi ngờ (nợ nhóm 4) giảm 1,5 lần xuống 378 tỷ đồng. Duy chỉ nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5) tăng 16,7% lên 2.840 tỷ đồng.