Những ký ức không bao giờ quên…
Bên ấm chè xanh vào buổi sáng một ngày cuối tháng Tư, tại nhà riêng của cựu chiến binh Nguyễn Đức Ngạn (SN 1957), trú tại phường Tân Giang, TP.Hà Tĩnh, là một trong những chiến sĩ đã từng tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam (30/4/1975), chúng tôi đã được nghe ông kể lại những trận đánh quyết định vào thời khắc lịch sử…
Tháng 10/1974, chàng thanh niên Nguyễn Đức Ngạn nhập ngũ khi vừa tròn 17 tuổi. Ông tham gia đoàn huấn luyện đóng tại Bãi Khủa, thuộc địa bàn xã Sơn Tây, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Tháng 1/1975, ông được bổ sung vào Trung đoàn 273 thuộc Sư đoàn 341, Đại đội 9, Tiểu đoàn 3, bộ đội bộ binh. Trung đoàn của ông được giao nhiệm vụ hành quân từ Quảng Bình vào miền Đông Nam Bộ để bổ sung lực lượng cho cuộc Tổng tấn công giải phóng miền Nam.
Trung đoàn của ông hành quân đi theo đường 9 Nam Lào qua tỉnh Atôpư (Lào) qua ngã 3 Đông Dương để tiến vào miền Tây Nam Bộ. Suốt 3 tuần ròng rã hành quân giữa những cơn mưa rừng, giữa cái nắng gió bỏng rát của đất Lào, trung đoàn của ông được giao nhiệm vụ giữ chốt tại đường 14 để chặn quân địch thua trận từ Tây Nguyên rút về Sài Gòn. Theo lời kể của cựu chiến binh Ngạn, tại đây, giữa quân ta và địch đã diễn ra nhiều trận đánh ác liệt. Cũng chính nơi này, nhiều anh em chiến sĩ thuộc Trung đoàn 273 đã mãi mãi bỏ lại xương máu.
“Sau khi hoàn thành nhiệm vụ giữ chốt, tôi cùng anh em đồng đội tiếp tục tham gia trận đánh mở màn vào chi khu quân sự Chân Thành của địch. Đây là chi khu khét tiếng mà quân địch được trang bị vũ khí tinh nhuệ, bọn chúng đi đến đâu, dân tình khiếp đảm đến đó. Quân ta đánh phía Tây Chân Thành sau đánh sang phía Đông Chân Thành phối hợp với lực lượng xe tăng pháo, giành chiến thắng vang dội. Giải phóng Chân Thành xong, tôi cùng anh em đồng đội tham gia vào chiến dịch Hồ Chí Minh vào ngày 26/4/1975”, hồi ức ùa về qua đôi mắt sáng ngời của người cựu chiến binh.
Sau khi giành chiến thắng tại Chân Thành, trung đoàn của ông tiếp tục được lệnh hành quân từ Chân Thành sang chi khu Trảng Bom (thuộc thị trấn Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai) của địch. Đây được coi là 1 trong những cánh cửa thép của địch, chặn tiếp viện của ta từ miền Bắc vào miền Nam. Điểm này quan trọng đến mức quân địch đã từng đưa ra khẩu hiệu: “Mất Trảng Bom là mất tất cả”.
Trận đánh một mất một còn
“19h ngày 25/4/1975, Đại đội 9 của tôi được cấp trên giao nhiệm vụ đánh vào Trảng Bom. Đây là trận đánh mở đường cho anh em đồng đội tiến lên. Khi nghe lệnh, anh em ai nấy đều bàng hoàng bởi đây là một vinh dự và cũng là nhiệm vụ sống còn. Có thể sau trận đánh này, chúng tôi mãi mãi không còn được gặp lại người thân. Tối hôm đó, tôi lục ba lô, mặc bộ quần áo mới vì sợ sẽ không còn cơ hội để được mặc nó nữa. Tôi cùng anh em đồng đội để lại những kỷ vật vào ba lô để nếu lỡ hy sinh, những kỷ vật này sẽ được mang về cho gia đình. Tôi là người được giao giữ khẩu trung liên hỏa lực của đơn vị, là người sẽ bắn phát súng đầu tiên để anh em xông lên nên cảm giác lo lắng, bồn chồn suốt đêm, không thể nào chợp mắt”, ông Ngạn xúc động.
Người cựu chiến binh tiếp lời, đến khoảng 2h ngày 26/4/1975, Đại đội của ông tiếp cận Trảng Bom. Tất cả anh em chiến sĩ được lệnh đào hầm nấp cách Trảng Bom khoảng 700m để tiếp cận quân địch. 4h cùng ngày, đào xong hầm, mồ hôi nhễ nhại, ướt đẫm cả vai áo, hàng trăm chiến sĩ thuộc Đại đội 9 đồng loạt vào vị trí ôm súng chờ lệnh tấn công.
“5h ngày 26/4, Tiểu đoàn 3, thuộc Trung đoàn 273 bắn pháo công kích. 15 phút sau, 3 phát pháo sáng nổ lên trời báo hiệu lệnh tổng tấn công, lính bộ binh chúng tôi ào lên, tiến thẳng, áp sát vào trung tâm chi khu quân sự Trảng Bom của địch. Lúc này, pháo kích các phía của địch bắn vào quân ta dồn dập. Chiến thuật của ta là đánh đồng loạt, hỏa lực trước bộ binh sau. Do quân địch bị thương rất nhiều vì pháo công kích của ta trước đó bắn trúng vào vị trí hầm của địch, anh em chiến sĩ chúng tôi thừa thắng xông lên, nhưng được lệnh phải bắt sống tàn quân, không được bắn chết. Tôi bắt sống được 1 tên lính địch, cùng đồng đội áp giải chúng ra đồi cao su, chiếm giữ hoàn toàn chi khu quân sự Trảng Bom. Đây là trận đánh đáng nhớ nhất trong cuộc đời người lính của tôi”, mắt ông Ngạn lại sáng lên những ký ức đầy tự hào.
Nhấp ngụm chè xanh, cựu chiến binh Ngạn tiếp lời, đến 16h cùng ngày sau khi quân ta chiếm giữ được chi khu quân sự Trảng Bom, anh em chiến sĩ được lệnh rút về hậu cứ. Tối 29/4/1975, toàn Tiểu đội 3 của ông được lệnh lên xe tăng tiến thẳng về Sài Gòn.
“Khoảng 5h ngày 30/4/1975, khi đại đội của tôi đi qua cầu Sài Gòn, 2 bên đường cờ đỏ sao vàng rợp trời, nhân dân đứng giơ tay vẫy chào và trao tay cho anh em chiến sĩ chúng tôi những mẩu bánh mỳ, gói lương khô để tiếp tế. 13h cùng ngày, đoàn xe chúng tôi tiến gần đến cửa Dinh Độc Lập thì bất ngờ một viên đạn từ xa bắn vào quả đạn B40 treo bên nòng súng ở trên xe. Quả B40 bị mẻ, khói phun lên, lúc này anh Nguyễn Đức Côi, người ở Thái Bình đã ôm quả B40, nhảy xuống xe tăng, vượt qua biển người đến thả xuống một gốc cây. Nhưng rất may là quả B40 chỉ bị bắn trúng phần vỏ đạn chứ không trúng vào đầu đạn. Nếu nó phát nổ vào lúc ấy thì cả mấy anh em trên xe cũng không còn một ai”, giọng cựu chiến binh Ngạn trầm xuống.
"Lúc xe tăng của chúng tôi tiến vào được Dinh Độc Lập thì cờ đã được cắm, đánh dấu sự kết thúc thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975. Một biển người cờ, hoa, nhân dân đứng 2 bên đường phấn khởi vẫy chào các anh bộ đội giải phóng. Gương mặt ai cũng hiện lên nét rạng ngời, hạnh phúc, một không khí hào hùng mà cả cuộc đời tôi không bao giờ quên được…”, cựu chiến binh Ngạn hồi tưởng lại.
Sau ngày giải phóng, cựu chiến binh Nguyễn Đức Ngạn được điều ra Bắc rồi phân về Trạm 16 thuộc Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Hà Tĩnh đóng ở xã Thạch Đài, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Đến cuối năm 1975, ông được phân công làm Phó Bí thư đoàn xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, sau đó, học bổ túc văn hóa. Tốt nghiệp cấp 3, ông thi đỗ vào trường đại học Pháp lý Hà Nội và sau đó về công tác tại Thanh tra tỉnh Hà Tĩnh.
“Sáng ngày 1/5/1975, Ủy ban Quân quản của ta bắt đầu làm việc, đại đội tôi tiếp tục nhận được lệnh hành quân diễu binh xung quanh thành phố. Đến 11h cùng ngày, chúng tôi dừng lại vào ăn cơm ở một nhà hàng, lực lượng quân du kích đi kiểm tra thực phẩm rồi mới cho anh em chiến sĩ ăn. Đó là bữa cơm đầu tiên sau ngày giải phóng. Bữa cơm đó chúng tôi được ăn cơm trắng, thịt kho trứng và rau muống luộc. Bưng bát cơm ăn, anh em chúng tôi ai cũng rưng rưng nước mắt: Khóc vì sung sướng khi đất nước đã thống nhất, khóc vì được ăn bát cơm trắng sau bao ngày cầm hơi chiến đấu, khóc vì đau đớn khi toàn đại đội chỉ còn lại một nửa. Đại đội chúng tôi gồm 120 người nhưng đã hy sinh gần một nửa quân số”, ông Ngạn trầm giọng.
Đến nay đã bước qua tuổi lục tuần nhưng với cựu chiến binh Nguyễn Đức Ngạn, hình ảnh từng dãy nhà cao tầng chót vót, ánh điện sáng lung linh, cô gái biệt động đi xe gắn máy dẫn đường cho đại đội ông tiến vào nội đô và màu cờ, hoa đỏ rợp trời là những ký ức không bao giờ quên về Sài Gòn…