Theo đó, tổng cục Hải quan yêu cầu cục Hải quan các tỉnh, thành phố chỉ đạo các Chi cục Hải quan trực thuộc tăng cường công tác kiểm tra xuất xứ, nhãn hàng hóa, thực hiện theo đúng quy định tại Nghị định số 19/2006/NĐ-CP về xuất xứ hàng hóa, Thông tư 38/2015/TT-BTC, Quyết định 4286/QĐ-TCHQ và Nghị định 43/2017/NĐ-CP cùng các công văn hướng dẫn khác của bộ Tài chính.
Văn bản cũng nêu rõ, Chi cục Hải quan nơi làm thủ tục chủ động chuyển luồng để kiểm tra thực tế hàng hóa đối với các trường hợp có nghi vấn liên quan đến khai báo xuất xứ, các thông tin thể hiện trên nhãn hàng hóa như: Không phù hợp thông tin về hàng hóa khai báo trên C/O và thông tin thể hiện trên nhãn hàng hóa (tên hàng, tên và địa chỉ cá nhân, tổ chức chịu trách nhiệm về hàng hóa, xuất xứ, mã vạch thể hiện trên nhãn hàng hóa nhập khẩu so với chứng từ thuộc bộ hồ sơ hải quan).
Khi phát hiện có vi phạm về xuất xứ, nhãn hàng hóa, cục Hải quan tỉnh, thành phố bảo có báo cáo kèm hồ sơ liên quan về cục Giám sát quản lý, tổng cục Hải quan.
Theo văn bản của tổng cục Hải quan, liên quan đến xác định xuất xứ hàng hóa, Luật Hải quan quy định tại khoản 1 Điều 27 như sau: Cơ quan hải quan xác định xuất xứ hàng hóa xuất khẩu trên cơ sở kiểm tra nội dung khai của người khai hải quan, chứng từ thuộc hồ sơ hải quan và kết quả kiểm tra thực tế hàng hóa.
Trường hợp có nghi ngờ về xuất xứ hàng hóa xuất khẩu, cơ quan hải quan yêu cầu người khai hải quan cung cấp chứng từ, tài liệu liên quan đến xuất xứ hàng hóa xuất khẩu, tiến hành kiểm tra, xác minh xuất xứ hàng hóa tại cơ sở sản xuất hàng hóa xuất khẩu.
Đối với hàng hóa sản xuất để lưu thông trong nước, khoản 2 Điều 9 Nghị định 43 quy định tổ chức, cá nhân đưa hàng hóa ra lưu thông phải chịu trách nhiệm ghi nhãn.
Trong trường hợp tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm ghi nhãn hàng hóa yêu cầu tổ chức, cá nhân khác việc ghi nhãn thì tổ chức, cá nhân đó vẫn phải chịu trách nhiệm về hàng hóa của mình.
Trường hợp hàng hóa xuất khẩu không xuất khẩu được hoặc bị trả lại, đưa ra lưu thông trên thị trường thì tổ chức, cá nhân đưa hàng hóa ra lưu thông phải ghi nhãn theo quy định tại khoản 3 Điều 9 Nghị định 43.
Tổng cục Hải quan cũng nêu rõ, Nghị định 43 quy định về ghi nhãn phụ tại khoản 4 Điều 8 như sau: Nội dung ghi trên nhãn phụ là nội dung dịch nguyên ra tiếng Việt từ các nội dung bắt buộc ghi trên nhãn gốc và bổ sung các nội dung bắt buộc khác còn thiếu theo tính chất của hàng hóa theo quy định tại Nghị định này. Tổ chức, cá nhân ghi nhãn phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của nội dung ghi. Nội dung ghi trên nhãn phụ gồm cả nội dung được ghi bổ sung không làm sai nội dung trên nhãn gốc và phải phản ánh đúng bản chất và nguồn gốc của hàng hóa.
Trường hợp hàng hóa là sản phẩm gia công theo hợp đồng gia công cho thương nhân nước ngoài thì nhãn hiệu hàng hóa và tên gọi xuất xứ hàng hóa là một trong những điều khoản tối thiểu bắt buộc phải thể hiện trong hợp đồng gia công.
Gần đây xuất hiện trường hợp doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng lụa bị người mua tố bán khăn lụa với thương hiệu Khaisilk nhưng hàng hóa ngoài mác “made in Viet Nam” còn có thêm mác “made in China”.
Theo bộ Công Thương, vụ việc Khaisilk sẽ chuyển sang Phòng Cảnh sát kinh tế, Công an TP.Hà Nội tiếp tục làm rõ vụ việc.
Cùng với đó, bộ Công Thương mở rộng vụ việc, lập đoàn kiểm tra liên ngành làm rõ vấn đề vi phạm nhãn mác, xuất xứ của khăn lụa Khaisilk.
Tổng cục Hải quan cũng cho biết, về phía cơ quan hải quan đang chủ động rà soát số liệu đối với mặt hàng khăn lụa nhập khẩu từ Trung Quốc.
Khoản 2 Điều 27 Luật Hải quan quy định Đối với hàng hóa nhập khẩu: a) Cơ quan hải quan kiểm tra, xác định xuất xứ hàng hóa nhập khẩu trên cơ sở nội dung khai của người khai hải quan, chứng từ chứng nhận xuất xứ, chứng từ thuộc hồ sơ hải quan và kết quả kiểm tra thực tế hàng hóa. Chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa nhập khẩu do cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu phát hành hoặc do người sản xuất, người xuất khẩu hoặc người nhập khẩu tự chứng nhận theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. b) Trường hợp có nghi ngờ về xuất xứ hàng hóa nhập khẩu, cơ quan hải quan tiến hành kiểm tra, xác minh xuất xứ hàng hóa tại nước sản xuất hàng hóa theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Kết quả kiểm tra, xác minh xuất xứ có giá trị pháp lý để xác định xuất xứ hàng hóa nhập khẩu. Trong khi chờ kết quả kiểm tra, xác minh xuất xứ hàng hóa, hàng hóa nhập khẩu được thông quan theo quy định tại Điều 37 của Luật này nhưng không được hưởng thuế suất ưu đãi đặc biệt. Số thuế chính thức phải nộp căn cứ vào kết quả kiểm tra, xác minh xuất xứ hàng hóa. |