Nghi vấn quanh họ Nguyễn làng Tam Sơn
Người xưa vẫn coi dòng họ Nguyễn làng Tam Sơn là một trong những dòng họ có nhiều người đỗ đạt, làm quan bậc nhất đất Kinh Bắc xưa. Theo thống kê thì làng Tam Sơn có 17 người đỗ đạt khoa từ phó bảng cho đến trạng nguyên. Trong số đó có 8 người họ Nguyễn và 9 người họ Ngô. Nếu dựa trên số liệu trên thì họ Ngô rõ ràng có nhiều người đỗ đạt hơn họ Nguyễn. Câu hỏi đặt ra là tại sao người xưa lại ca tụng họ Nguyễn đến như vậy? Thậm chí theo tìm hiểu của chúng tôi, trong số 8 người đỗ đạt khoa họ Nguyễn thì đa phần không cùng huyết tộc như các dòng họ danh giá mà chúng tôi đề cập các kỳ trước. Vậy họ Nguyễn làng Tam Sơn là dòng họ nào?
Cho đến nay chúng tôi vẫn không có chứng cứ cụ thể để khẳng định chắc chắn dòng họ Nguyễn nổi tiếng làng Tam Sơn là dòng họ nào cả. Tuy nhiên qua quá trình tìm hiểu về lịch sử dòng họ của làng, chúng tôi đã phát hiện ra nhiều câu chuyện thú vị. Tại ngôi làng này có dòng họ Ngô Nguyễn vốn gốc họ Nguyễn di cư từ làng Nghĩa Lập (nay thuộc xã Phù Khê, thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh) xuống sinh sống và cũng là dòng họ có nhiều người đỗ đạt. Theo ông Ngô Sách Viện, người trông nom nhà thờ dòng họ Ngô Nguyễn làng Tam Sơn thì: "Tính về số lượng người đỗ tiến sĩ tại làng, dòng họ chúng tôi quả là có nhiều người đỗ đạt nhất". Nhiều khả năng dòng họ Nguyễn nổi tiếng làng Tam Sơn được nhắc tới trong lời truyền tụng chính là dòng họ Ngô Nguyễn này chăng?
Khởi thủy dòng họ Ngô Nguyễn là họ Nguyễn, sinh sống tại làng Nghĩa Lập (nay thuộc xã Phù Khê, thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh). Từ cụ tổ Nguyễn Quý Công sinh cơ lập nghiệp vào thời hậu Lê (thế kỷ XV) cho đến đời thứ tư, gia tộc có cụ Nguyễn Hữu Thường (1520-1590) đỗ tiến sĩ dưới triều Mạc Phúc Nguyên, làm quan đến chức Tả thị lang Bộ Binh. Đến đời thứ năm, có cụ Nguyễn Gia Mưu đỗ tiến sĩ dưới triều Mạc Phúc Nguyên. Cụ Nguyễn Gia Mưu chính là thủy tổ dòng họ Nguyễn làng Tam Sơn sau này.
Nhà thờ tổ họ Nguyễn tại làng Nghĩa Lập (xã Phù Khê, thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh).
Tương truyền rằng, khi quan nghè Nguyễn Hữu Thường vinh quy về làng đã bắt người cháu ruột là Nguyễn Gia Mưu ra đường cái quan cáng võng bà quan nghè về quê bái tổ. Uất ức vì sự đối xử của người chú ruột, Nguyễn Gia Mưu cáng võng người thím ruột - vợ quan nghè Nguyễn Hữu Thường về đến đầu làng, sau đó bỏ quê về Tam Sơn, xin làm học trò trạng nguyên Ngô Miễn Thiệu.
Nhờ sự giúp đỡ âm thầm của người chú ruột là Nguyễn Hữu Thường và sự chỉ bảo tận tình của trạng nguyên Ngô Miễn Thiệu, cụ Nguyễn Gia Mưu học hành ngày càng tiến bộ và chiếm được tình cảm của thầy dạy. Chính trạng nguyên Ngô Miễn Thiệu vì quý tài đức của cụ nên đã gả con gái yêu cho làm vợ, ngày ngày chăm sóc lo việc đèn sách cho chồng. Sau những năm tháng dùi mài kinh sử, năm 37 tuổi, Nguyễn Gia Mưu đã đỗ tiến sĩ dưới triều Mạc Phúc Nguyên.
Ngày vinh quy bái tổ, Nguyễn Gia Mưu đã không về nơi sinh quán là làng Nghĩa Lập, mà về quê vợ - làng Tam Sơn để sinh sống. Cũng bắt đầu từ đó nảy sinh một dòng họ nối đời khoa bảng, mà ngoại tổ chính là trạng nguyên Ngô Miễn Thiệu, thủy tổ là tiến sĩ Nguyễn Gia Mưu. Cũng để nhớ ơn công lao của người bố vợ - trạng nguyên Ngô Miễn Thiệu, nên con cháu dòng họ Nguyễn sau này đều đổi sang họ Ngô và có hai nhánh lớn là Ngô Nguyễn và Ngô Sách. Riêng tại quê gốc làng Nghĩa Lập, để thể hiện sự hướng tổ, con cháu họ Nguyễn lấy thêm tên đệm là Ngô và tạo lập ra dòng họ Nguyễn Ngô. Cùng với dòng dõi họ Ngô của trạng nguyên Ngô Miễn Thiệu, họ Nguyễn làng Tam Sơn chính là hai dòng họ nối đời khoa bảng, có nhiều người giữ chức vụ quan trọng trong triều đình. Tuy nhiên tất cả những vị tiến sĩ này cũng đều mang họ Ngô. Chính bởi vậy, nếu không tìm hiểu kĩ tư liệu lịch sử cũng như gia phả dòng họ, chúng ta rất khó tách bạch được đâu là họ Ngô, đâu là họ Nguyễn.
Dòng họ phát cả văn lẫn võ
Ngôi làng hiếm có của Việt Nam Trong lịch sử khoa bảng phong kiến Việt Nam, làng Tam Sơn có tổng cộng 17 người đỗ đạt khoa từ phó bảng cho đến trạng nguyên trong các kỳ thi nho học. Đây là làng khoa bảng lớn thứ 4 ở Việt Nam thời xưa, chỉ đứng sau các làng Mộ Trạch (Hải Dương), Kim Đôi (Bắc Ninh) và Đông Ngạc (Hà Nội). Đặc biệt hơn cả, đây là ngôi làng có đủ tam khôi với hai trạng nguyên, một thám hoa, một bảng nhãn. Thành tích này quả là điều vô cùng hiếm thấy. |
Họ Nguyễn làng Tam Sơn được tính từ cụ thủy tổ là tiến sĩ Nguyễn Gia Mưu đến thế hệ sau này liên tục có người làm quan và giữ những trọng trách quan trọng trong triều đình. Bản thân cụ Nguyễn Gia Mưu đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân triều Mạc Phúc Nguyên, làm quan đến chức Tham chính. Những người con trai của cụ Mưu đều rất thành đạt. Người con trưởng là Nguyễn Khiêm hiệu Văn Phong phủ quân, làm quan Tri huyện huyện Phù Khang. Người con thứ là cụ Nguyễn Cường Nghị, làm quan tới chức Phụ quốc Thượng tướng quân cẩm y vệ đô chỉ huy sứ ty (cụ sau này về sống ở làng Tam Sơn ngày nay). Bà á thất của cụ Nguyễn Gia Mưu sinh được một người con trai tên tự là Dũng Lược, hiệu Phúc Xuyên phủ quân, làm quan đến chức Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân, cẩm y vệ đô chỉ huy sứ.
Riêng cụ Cường Nghị sinh ra người con trai là Ngô tướng công tự Tính Thiện. Cụ Tính Thiện sinh ra Ngô Sách Thí, đỗ tiến sĩ khoa Kỷ Hợi năm 1659 đời Lê Thần Tông, làm quan tới chức sát sứ. Chính vị tiến sĩ này là ông tổ khoa bảng dòng họ Ngô Sách (mà gốc là họ Nguyễn) ở Tam Sơn, đồng thời cũng là người đặt nền móng cho sự hiển đạt thần kỳ của dòng họ Ngô nơi đây. Ngô Sách Thí lại có hai người con trai đều đỗ đạt là Ngô Sách Dụ và Ngô Sách Tuân. Ngô Sách Dụ đỗ tiến sĩ khoa Giáp Thìn năm 1664 đời Lê Huyền Tông khi mới 25 tuổi. Ông làm quan đến chức Phụng thiên Phủ doãn. Ngô Sách Tuân đỗ tiến sĩ năm Bính Thìn 1676 đời Lê Hy Tông. Ông làm quan tới chức Lại bộ Hữu thị lang. Sử sách chép rằng khi làm giám thị trường thi Thanh Hóa, ông phạm lỗi báo bài thi của con tham tụng Lê Hi cho giám khảo để tăng điểm. Việc bị phát giác ông bị triều đình khép vào tội chết.
Ngô Sách Tuân vốn có một người con trai đặc biệt thông minh, ham học từ nhỏ là Ngô Sách Tố (tên khác là Sách Hân). Ông chính là người đỗ thám hoa khoa Tân Sửu năm 1721 đời Lê Dụ Tông khi 32 tuổi. Sau khi thi đỗ Ngô Sách Thí được bổ làm Đông các hiệu thư, thắng bổ Đốc đồng Sơn Nam, đổi làm Đốc đồng An Quảng. Khoảng đầu niên hiệu Cảnh Hưng (1740 - 1786) được thăng chức Hộ bộ Thị lang. Khi Ân vương Trịnh Doanh chấp chính, ông được thăng chức Hành tham tụng, sau đổi sang võ chức làm tới Binh bộ thượng thư, Nhập thị Tham tụng, hàm Thiếu bảo, tước Huy quận công. Năm 65 tuổi, ông xin về trí sĩ và mở lớp dạy học. Nhiều học trò các nơi đến xin theo học và đỗ đạt làm quan. Sau khi mất, ông được truy tặng hàm Thiếu Bảo.
Ông Ngô Sách Viện, người trông nom nhà thờ dòng họ Ngô Nguyễn làng Tam Sơn cho biết: "Con cháu dòng họ nhiều đời sau luôn phát huy truyền thống hiếu học khoa bảng và đỗ đạt thành danh, làm công thần của các triều Lê-Nguyễn, có nhiều công lao với dân với nước. Con cháu chúng tôi ngày nay luôn cố gắng phát huy thành tích của cha ông nhằm làm vẻ vang hơn nữa bảng vàng của gia tộc. Nhiều người trong dòng họ học hành thành đạt, làm việc ở nhiều lĩnh vực xã hội, đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên chúng tôi phải thừa nhận rằng, thế hệ con cháu sau này không thể sánh bằng các cụ ngày trước. Đây là điều đáng để cho chúng tôi suy nghĩ".
Phạm Thiệu