Võ sĩ giác đấu trong tiếng Latin là gladiator, nghĩa là kiếm sĩ hay có cách gọi khác là đấu sĩ hoặc võ sĩ. Những trận chiến sinh tử của các đấu sĩ thường không tránh khỏi việc đổ máu thậm chí là mất mạng.
Các võ sĩ chân chính có thể tham gia những trận chiến ở đấu trường La Mã. Trong nhiều trường hợp khác, tội phạm bị kết án tử hình, tù nhân chiến tranh hay nô lệ sẽ bị quan chức La Mã ép tham gia vào trò chơi chém giết đồng loại và trở thành thú đối tượng để mọi người cá cược thắng thua.
Tuy nhiên, một số người dân tự nguyện làm võ sĩ giác đấu với mục đích chính là kiếm được nhiều tiền bạc hay danh vọng. Cuộc chiến sinh tử này được cho là trò chơi tàn độc nhất lịch sử. Nó trở thành thú mua vui phổ biến trong thời kỳ Cộng hòa La Mã (năm 509 - 27 trước công nguyên) và Đế chế La Mã (năm 27 trước công nguyên đến năm 476). Từ những năm 60, phụ nữ cũng bị hấp dẫn và lôi kéo tham gia đấu trường sinh tử ghê rợn này. Mãi đến thời đại cai trị của Hoàng đế Septimius Severus (145-211) thì trò chơi đẫm máu này mới bị cấm.
Bên cạnh các trận chiến sinh tử giữa người với người, một hình thức giác đấu nữa là những trận tranh hùng giữa người với quái thú hay thú dữ so tài với nhau.
Mỗi khi đấu trường La Mã mở cuộc chiến như vậy đều thu hút rất đông khán giả đến xem. Hàng ngàn người chăm chú quan sát những pha hành động chém giết nhau của các võ sĩ. Khán giả reo hò, cổ vũ nhiệt tình, thậm chí tỏ rõ vui sướng khi nhìn thấy có người đổ máu, trúng đòn của đối phương hay bị giết. Một số người còn hét lên “Giết! Giết! Giết!" khi có võ sĩ bại trận.
Võ sĩ giác đấu thua cuộc phải giơ tay lên hỏi ý kiến dân chúng và sẽ có cơ hội sống sót nếu đa số chỉ ngón tay cái lên trời. Ngược lại, họ sẽ có thể bị giết ngay tại chỗ nếu như đám đông chỉ ngón cái xuống đất.
Các võ sĩ giác đấu được trang bị vũ khí và quần áo giống như những kẻ mọi rợ khi chỉ quấn khố và sử dụng hung khí được tẩm độc. Hầu hết võ sĩ đều không mặc áo khi chiến đấu, có thể đi chân không hoặc mang dép sandal. Thỉnh thoảng, một số người được bảo hộ cơ thể bằng một loại quần áo giống như áo giáp.
Những vũ khí mà võ sĩ sử dụng gồm có roi da, kiếm cong ngắn, lưới, dao găm, đinh ba… Căn cứ vào vũ khí, trang bị của họ mà người La Mã phân chia ra nhiều kiểu võ sĩ giác đấu như: đấu sĩ đội mũ giáp (myrmillo), đấu sĩ đeo mạng lưới (retiariae) hay võ sĩ che mặt (samnite).
Một số võ sĩ giác đấu giành chiến thắng sẽ trở thành người nổi tiếng và được mọi người tung hô như những ngôi sao. Họ cũng trở thành đối tượng mà nhiều phụ nữ khao khát được ở bên. Thêm vào đó, họ sẽ bị xăm hình lên mặt, cẳng chân và bàn tay để mọi người dễ dàng phân biệt các võ sĩ với nhau.
Đến năm 80, hoàng đế Titus đã cho công nhân xây dựng đấu trường riêng và đặt tên cho nó là Colisée, nơi diễn ra cuộc so tài đẫm máu đó có sức chứa từ 50.000 – 80.000 người xem. Nó có hình elip và bố trí nhiều hàng ghế mang dáng dấp của hình bậc thang.
Sau đó, người La Mã cổ đại đưa các võ sĩ giác đấu từ khắp mọi nơi mà đế chế La Mã thống trị (trong đó có cả khu vực châu Phi và Địa Trung Hải, Anh) đến tham gia các cuộc chiến sinh tử. Dần dần, người ta xây dựng thêm nhiều đấu trường khác như ở London và Chester.
Theo các tài liệu lịch sử, trận đấu sinh tử ở đấu trường La Mã đầu tiên xuất hiện giống như một phần của nghi lễ tôn giáo vào thời văn minh Etruscans của Italy thời cổ đại. Cụ thể, vào năm 264 trước công nguyên, sau cái chết của vị quý tộc nổi tiếng Junius Brutus, con trai của ông muốn vinh danh tên tuổi của người cha quá cố, đồng thời muốn tìm võ sĩ khỏe mạnh, thiện chiến hộ tống ông sang thế giới bên kia nên đã tổ chức một cuộc đấu đá, chém giết ngay trong lễ tang.
Trong số 22 tù nhân chiến tranh, người ta chọn ra 3 cặp võ sĩ thi đấu với nhau tại đấu trường Boarium. Võ sĩ còn sống sót duy nhất được vinh danh như một tên tuổi ưu tú. Những người quá cố được cho là sẽ sang thế giới bên kia hộ tống, bảo vệ Junius Brutus.
Từ đó, những cuộc chiến sinh tử như vậy nhanh chóng phổ biến trong xã hội. Năm 216 trước công nguyên, trong tang lễ của Marcus Aemilius Lepidus, người ta tổ chức cuộc chiến sinh tử giữa 22 đấu sĩ để tìm ra người mạnh nhất.
10 năm sau đó, vị tướng quân người châu Phi có tên Scipio "The Great" cũng đã tổ chức những trận giác đấu khác để tưởng nhớ đến công ơn của người cha và chú. Một trong những trận đấu hoành tráng có phần ngông cuồng với sự tham gia của 120 võ sĩ giác đấu. Những người này so tài chém giết nhau trong suốt 3 ngày. Đấu trường tầm cỡ to lớn trên do gia tộc Crassi tổ chức vào năm 183 trước công nguyên.
Nếu võ sĩ thất bại và có nhiều vết thương nặng thì sẽ bị người khác dùng một chiếc búa to đánh một cú chí mạng vào đầu dẫn đến tử vong. Thi thể của võ sĩ bại trận sẽ được xử lý tùy theo xuất thân của mỗi người. Đối với tầng lớp tử tù, họ sẽ được đem chôn hoặc ném xuống sông. Những võ sĩ giác đấu khác xuất thân từ tầng lớp thường dân hay quý tộc sẽ được chôn cất tử tế với lòng thành kính của mọi người.
Còn trong cuộc chiến sinh tử giữa võ sĩ với thú dữ thì một số trường hợp con thú đó sẽ ăn thịt kẻ thua cuộc ngay tại đấu trường. Người ta để chuyện này xảy ra vì cho rằng, điều đó sẽ giúp chúng quen dần với mùi thịt người. Từ đó, chúng sẽ chiến đấu hăng máu hơn trong những trận đấu kế tiếp. Thậm chí, một số võ sĩ chết trên đấu trường còn bị xẻ thịt và phân phát cho những người đến xem mang về chế biến thành thức ăn hay làm đồ vật mang tính kỷ niệm.
Theo kết quả nghiên cứu về các các bộ xương của võ sĩ giác đấu thời kỳ này, các chuyên gia phát hiện nhiều thi thể có một cánh tay khỏe hơn cánh tay còn lại. Điều này cho thấy họ được huấn luyện để sử dụng các vũ khí lớn ngay từ khi còn trẻ. Giới khoa học còn cho hay, võ sĩ thời này sở hữu cơ thể cường tráng, vạm vỡ, cao to hơn so với những người bình thường.
Một số võ sĩ giác đấu nổi tiếng thời xưa gồm: Hoàng đế Commodus, võ sĩ Spartacus, tướng quân Mark Anthony. Trong số đó, nổi tiếng hơn cả là trường hợp của Hoàng đế Commodus. Ông từng làm võ sĩ giác đấu và có cuộc so tài với quái thú.
Trong tài liệu của Cassius Dio (năm 164 - 235) có nhắc đến cuộc so tài của vị hoàng đế trên: "Sau khi giết chết một con đà điểu châu Phi và chặt đầu nó, hoàng đế Commodus đi tới chỗ các vị chức sắc ngồi. Ông nắm đầu con thú bằng tay trái và tay phải lắc lư thanh gươm dính đầy máu. Không nói một lời, ông chỉ hất hàm và nở nụ cười đầy thách thức, ám chỉ rằng ông có thể làm điều tương tự với mọi người".
Theo Kiến thức