Ngày 17/9, Bộ Tài chính ban hành Thông tư 77/2021/TT-BTC sửa đổi Thông tư 200/2015/TT-BTC hướng dẫn một số nội dung về giám sát đầu tư vốn Nhà nước vào doanh nghiệp; giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động và công khai thông tin tài chính của doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn Nhà nước.
Thông tư 77/2021/TT-BTC có hiệu lực thi hành kể từ ngày 3/11/2021 và áp dụng từ năm tài chính 2021.
Sửa tiêu chí chấp hành pháp luật để xếp loại doanh nghiệp Nhà nước
Hiện nay, doanh nghiệp xếp loại A khi không có kết luận về vi phạm cơ chế, chính sách một trong những lĩnh vực đầu tư, thuế,... hoặc bị nhắc nhở về việc thực hiện cơ chế, chính sách nhưng chưa đến mức bị xử phạt hành chính.
Tuy nhiên, theo Thông tư số 77/2021/TT-BTC, doanh nghiệp xếp loại A khi đáp ứng 2 điều kiện sau: Trong năm đánh giá xếp loại, doanh nghiệp không bị cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính trong lĩnh vực thuế đối với nhóm hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn, không thu và nhóm hành vi trốn thuế; Không bị hoặc bị cơ quan đại diện chủ sở hữu/cơ quan tài chính nhắc nhở bằng văn bản 1 lần về việc nộp báo cáo để thực hiện giám sát tài chính, báo cáo xếp loại doanh nghiệp, báo cáo tài chính không đúng quy định, không đúng thời hạn.
Doanh nghiệp xếp loại B khi thuộc một trong các trường hợp:
Doanh nghiệp bị cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính trong lĩnh vực thuế do có 01 hành vi vi phạm thuộc nhóm hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn, không thu. Thông tư số 77/2021/TT-BTC đã quy định cụ thể hơn về hành vi vi phạm bị xử phạt hành chính.
Bị cơ quan đại diện chủ sở hữu/cơ quan tài chính nhắc nhở bằng văn bản 2 lần về việc nộp báo cáo để thực hiện giám sát tài chính, báo cáo xếp loại doanh nghiệp, báo cáo tài chính không đúng quy định, không đúng thời hạn. Trong khi đó, theo quy định hiện hành chỉ cần bị nhắc nhở bằng văn bản 1 lần.
Doanh nghiệp xếp loại C thuộc một trong các trường hợp:
Doanh nghiệp bị cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế do có từ 2 hành vi vi phạm khác nhau trở lên thuộc nhóm hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn, không thu; hoặc có hành vi trốn thuế. Thông tư 200/2015/TT-BTC chỉ quy định chung doanh nghiệp bị xử phạt hành chính bằng các hình thức khác hoặc bị phạt tiền.
Bị cơ quan đại diện chủ sở hữu/cơ quan tài chính nhắc nhở bằng văn bản từ 03 lần trở lên về nộp báo cáo để thực hiện giám sát tài chính, báo cáo xếp loại doanh nghiệp, báo cáo tài chính không đúng quy định, thời hạn. Hiện nay, theo Thông tư 200/2015/TT-BTC, số lần bị nhắc nhở bằng văn bản từ 2 lần trở lên.
Người quản lý doanh nghiệp vi phạm pháp luật khi thực thi nhiệm vụ của doanh nghiệp được đánh giá xếp loại thuộc một trong những lĩnh vực đầu tư, thuế,... theo kết luận của cơ quan chức năng. Việc đánh giá xếp loại doanh nghiệp chỉ tính 1 lần đối với cùng một vụ việc sai phạm của người quản lý doanh nghiệp. Hiện nay, theo quy định của Thông tư 200/2015/TT-BTC, người quản lý điều hành doanh nghiệp có hành vi vi phạm pháp luật đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thông tư 77/2021/TT-BTC bổ sung quy định các hành vi vi phạm thủ tục thuế không xem xét để thực hiện đánh giá xếp loại doanh nghiệp.
Sửa quy định về phân loại doanh nghiệp để đánh giá xếp loại
Thông tư số 77/2021/TT-BTC cũng sửa đổi quy định về phân loại doanh nghiệp để thực hiện đánh giá xếp loại doanh nghiệp.
Cụ thể, cơ quan đại diện chủ sở hữu căn cứ vào danh mục sản phẩm, dịch vụ công sử dụng ngân sách Nhà nước từ nguồn kinh phí chi thường xuyên theo quy định của Chính phủ về giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu cung cấp sản phẩm, dịch vụ công sử dụng ngân sách Nhà nước từ nguồn kinh phí chi thường xuyên để phân loại doanh nghiệp. So với hiện hành, cụm từ “sản phẩm, dịch vụ công sử dụng ngân sách Nhà nước từ nguồn kinh phí chi thường xuyên” được sử dụng để thay cho cụm từ “sản phẩm, dịch vụ công ích”.
Đối với doanh nghiệp An ninh Quốc phòng, Cơ quan đại diện chủ sở hữu (Bộ Quốc phòng, Bộ Công an) quyết định phân loại doanh nghiệp cụ thể đối với từng doanh nghiệp.
Việc phân loại doanh nghiệp để thực hiện đánh giá xếp loại doanh nghiệp được cơ quan đại diện chủ sở hữu nêu cụ thể trong quyết định giao kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm cho từng doanh nghiệp.
Trường hợp là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thì xếp loại doanh nghiệp theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 30 Nghị định 87/2015/NĐ-CP .
Trường hợp là doanh nghiệp thực hiện cung cấp sản phẩm, dịch vụ công sử dụng ngân sách Nhà nước từ nguồn kinh phí chi thường xuyên thì xếp loại doanh nghiệp theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 30 Nghị định 87/2015/NĐ-CP .
Bãi bỏ một số quy định tại Thông tư 200/2015/TT-BTC
Ngoài ra, Thông tư số 77/2021/TT-BTC bãi bỏ một số quy định tại Thông tư số 200/2015/TT-BTC.
Trong đó, bãi bỏ nội dung quy định về chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp tại khoản 1 Điều 12: “Đối với những doanh nghiệp sản xuất sản phẩm chủ yếu của nền kinh tế gồm: Điện, than, dầu khí, xi măng thì tính theo sản lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ; Đơn vị để tính sản lượng của sản phẩm dầu thô là tấn, khí là m3, than, xi măng là tấn, điện là kwh”.
Bãi bỏ nội dung quy định liên quan đến lợi nhuận sau thuế và tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu tại điểm b khoản 2 Điều 12: “Trường hợp tại thời điểm lập báo cáo tài chính năm, doanh nghiệp chưa thực hiện phân phối trích lập các quỹ thì khi thực hiện đánh giá hiệu quả hoạt động doanh nghiệp phải cộng thêm số trích lập của Quỹ đầu tư phát triển theo quy định tại tiết b khoản 3 Điều 31 Nghị định số 91/2015/NĐ-CP vào chỉ tiêu vốn chủ sở hữu để làm căn cứ xác định tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu”.
Thông tư số 77/2021/TT-BTC cũng bãi bỏ Điều 13 về chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động của người quản lý doanh nghiệp; khoản 3 Điều 14 về xếp loại người quản lý doanh nghiệp; bãi bỏ Biểu số 04.A, Biểu số 04.B, Biểu số 05.B tại Thông tư số 200/2015/TT-BTC.
Tuệ Minh