Thực tế hiện nay có một số trường hợp vợ chồng trong thời gian chung sống tạo lập được tài sản chung nhất định. Sau đó, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn nên sống ly thân. Trong thời gian vợ chồng sống ly thân, vợ hoặc chồng dùng tài sản chung của vợ chồng để tạo ra nguồn thu nhập khác hoặc có trường hợp vợ hoặc chồng có được thu nhập từ việc tặng, cho riêng… Khi ly hôn, họ tranh chấp về số tài sản có được trong thời gian vợ chồng ly thân. Vậy tài sản có được trong thời gian sống ly thân có phải là tài sản chung của vợ chồng?
Luật Hôn nhân và gia đình 2014 và các văn bản hướng dẫn chưa quy định về vấn đề ly thân vì vậy chưa có khái niệm hay định nghĩa chính thức nào. Tuy nhiên, theo cách hiểu mang tính phổ biến, ly thân là việc vợ, chồng không còn ràng buộc nhau về tình cảm, kinh tế, mỗi người sinh sống một nơi. Một số trường hợp cá biệt vẫn sống cùng nhà nhưng cũng không có sự ràng buộc nào.
Do pháp luật chưa có quy định nên ly thân không làm chấm dứt quan hệ hôn nhân nên về nguyên tắc tài sản có trong thời kỳ ly thân vẫn là tài sản chung của vợ chồng. Khi ly hôn, một trong các bên đều có quyền yêu cầu tòa án chia tài sản chung.
Theo quy định tại điều 33 luật Hôn nhân và gia đình 2014, tài sản chung của vợ, chồng bao gồm:
Thứ nhất, tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 điều 40 của luật Hôn nhân và gia đình 2014 (chia tài sản chung trong thời ký hôn nhân); tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Thứ hai, tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
Thứ ba, trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì giải quyết theo quy định tại điều 59 luật Hôn nhân và gia đình 2014.
Về nguyên tắc, tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau:
Một là, hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng.
Hai là, công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập.
Ba là, bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập.
Bốn là, lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của luật Hôn nhân và gia đình 2014.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Với các quy định nói trên, về nguyên tắc vợ chồng có quyền yêu cầu tòa án chia tài sản được tạo lập được trong thời gian ly thân (trừ các tài sản bạn được thừa kế riêng, được tặng cho riêng).
Hoàng Mai