Theo báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội do Tổng cục Thống kê công bố sáng 29/1, trong mức tăng 0,31% của CPI tháng 1/2024 so với tháng trước, có 9 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, 2 nhóm hàng có chỉ số giá giảm.
Cụ thể, trong số nhóm hàng hóa, dịch vụ có chỉ số giá tăng, nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng cao nhất, với 1,02%, làm CPI chung tăng 0,05 điểm phần trăm). Trong đó, chỉ số giá thuốc các loại tăng 0,09%; dịch vụ khám chữa bệnh ngoại trú tăng 0,89%; dịch vụ khám chữa bệnh nội trú tăng 1,67%.
Nguyên nhân chủ yếu do một số địa phương triển khai áp dụng giá dịch vụ y tế mới theo Thông tư số 22/2023/TT-BYT ngày 17/11/2023 của Bộ Y tế quy định thống nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc và hướng dẫn áp dụng giá, thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh trong một số trường hợp.
Đứng thứ 2 là nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng với mức tăng 0,56%, chủ yếu do giá điện sinh hoạt tháng 1/2024 tăng 1,29% so với tháng trước do Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã có Quyết định số 1416/QĐ-EVN ngày 8/11/2023 về việc điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân từ ngày 9/11/2023, cùng với đó nhu cầu dùng điện để sưởi ấm tăng khi thời tiết chuyển lạnh.
Các nhóm hàng hóa như dịch vụ, đồ uống và thuốc lá, may mặc, thực phẩm cũng tăng so với tháng trước do nhu cầu mua sắm của người dân cho dịp Tết Nguyên đán 2024.
Mặt khác, nhóm giáo dục có chỉ số giá giảm mạnh nhất, giảm 0,12%. Nguyên nhân chủ yếu do ngày 31/12/2023, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 97 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81 ngày 27/8/2021, trong đó yêu cầu giữ ổn định mức thu học phí từ năm học 2023-2024 bằng mức thu học phí của năm học 2021-2022 đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông công lập. Do đó, một số địa phương đã điều chỉnh giảm mức học phí sau khi đã thu theo Nghị định số 81.
So với cùng kỳ năm trước, CPI tháng 1/2024 tăng 3,37%. Trong 11 nhóm hàng tiêu dùng chính có 10 nhóm tăng giá và 1 nhóm giảm giá.
Dẫn đầu nhóm hàng có chỉ số giá tăng là nhóm giáo dục, với mức tăng 8,39% làm CPI chung tăng 0,52 điểm phần trăm, do trong năm học 2023-2024 một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã tăng mức học phí.
Tiếp đó là nhóm thuốc và dịch vụ y tế với mức tăng 6,52%, làm CPI chung tăng 0,35 điểm phần trăm do giá dịch vụ y tế được điều chỉnh theo Thông tư số 22/2023/TT-BYT của Bộ Y tế từ ngày 17/11/2023.
Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 6,39%, làm CPI chung tăng 1,2 điểm phần trăm do giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở và giá nhà ở thuê tăng. Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,31%, tác động làm CPI chung tăng 0,77 điểm phần trăm, trong đó nhóm lương thực tăng 15,63%; ăn uống ngoài gia đình tăng 3,6%; riêng thực phẩm giảm 0,34%.
Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 1,7% làm CPI chung tăng 0,05 điểm phần trăm, chủ yếu do nhu cầu tiêu dùng tăng trong dịp Tết và giá nguyên liệu sản xuất đồ uống, chi phí vận chuyển tăng.
Nhóm giao thông tăng 1,58% làm CPI chung tăng 0,15 điểm phần trăm, trong đó phụ tùng tăng 1,95%, bảo dưỡng phương tiện đi lại tăng 3,4%; xăng dầu tăng 0,52%.
Bên cạnh đó, nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tháng 1/2024 tăng 1,39% so với cùng kỳ năm trước; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,14%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,9%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 5,79%.
Ở chiều ngược lại, chỉ số giá nhóm bưu chính, viễn thông tháng 1/2024 giảm 1,41% so với cùng kỳ năm trước do giá điện thoại thế hệ cũ giảm.
Tổng cục Thống kê cũng chỉ ra lạm phát cơ bản tháng 1/2024 tăng 0,21% so với tháng trước. Lạm phát cơ bản tăng 2,72% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức CPI bình quân chung (tăng 3,37%) chủ yếu do giá dịch vụ y tế và giá dịch vụ giáo dục là yếu tố tác động tăng CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính toán lạm phát cơ bản.
Trong nước, nhu cầu mua sắm vàng trước Tết Nguyên đán tăng làm chỉ số giá vàng tháng 1/2024 tăng 2,55% so với tháng 12/2023 và tăng 15,43% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá USD tháng 1/2024 tăng 0,52% so với tháng 12/2023 và tăng 3,69% so với cùng kỳ năm trước.