Trải qua nhiều thăng trầm, nổi trôi theo vận nước, nghề luật sư Việt Nam đã sản sinh ra nhiều thế hệ luật sư không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn có nhiều đóng góp cho cách mạng nhằm giải phóng cho dân tộc.
Nghề luật sư nước ta Thời kỳ Pháp thuộc: Sự xâm lăng của người Pháp trên đất nước ta bắt đầu từ năm 1858. Sau khi xâm lược Nam kỳ, ngày 26 tháng 11 năm 1876, toàn quyền Pháp ban hành Nghị định về việc biện hộ tại toà án cho người Pháp hoặc người Việt mang quốc tịch Pháp. Sau khi thiết lập bộ máy cai trị ở nước ta và toàn cõi Đông dương, thực dân Pháp chia ra 5 xứ để cai trị: Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Ai Lao, Cao miên. Toàn quyền Pháp ký Sắc lệnh thành lập Đoàn luật sư Sài Gòn và Hà Nội, gồm các luật sư đã tốt nghiệp trường Luật ở Pháp có quốc tịch Pháp. Tiếp đến sắc lệnh ngày 30 tháng 01 năm 1911, nhà cầm quyền Pháp đã mở rộng nghề luật sư không hạn chế chỉ người Pháp và người Việt mang quốc tịch Pháp, mà còn có cả người Việt mang quốc tịch Việt.
Ngày 25 tháng 5 năm 1930, toàn quyền Pháp ký Sắc lệnh tổ chức Luật sư đoàn ở Hà Nội, Sài Gòn và Đà Nẳng. Sắc lệnh này lại mở rộng thêm cho các luật sư không chỉ biện hộ cho thân chủ có quốc tịch Pháp mà cho cả thân chủ không phải là quốc tịch Pháp; không chỉ biện hộ ở tòa án Pháp mà cả toà Nam án. Người Việt Nam đầu tiên làm luật sư là ông Phan Văn Trường, tốt nghiệp trường Đại học Luật ở Pháp và làm luật sư tại Paris.
Cùng với văn học, nghệ thuật, giai đoan 1930 - 1945 cũng là thời kỳ bùng nổ nghề luật sư ở Việt Nam khi các luật sư trở về sau khi du học tại Pháp cùng với một số lượng đông đảo những người được đào ngành Luật tại Trường Đại học Đông Dương, Hà Nội. Có thể kể đến những tên tuổi luật sư vang danh như: Phan Văn Trường (1876 - 1933), Phan Anh ( 1912 - 1990), Vũ Trọng Khánh (1912 - 1996), Nguyễn Manh Tường (1909-1997), Nguyễn Hữu Thọ, Trương Đình Dzu (1917-1991)…
Thời kỳ độc lập sau năm 1945: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời; Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Chính phủ liên hiệp. Ngày 10 tháng 10 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46/SL về tổ chức các Đoàn luật sư trong nước. Điều thứ 1 của Sắc lệnh ghi nhận: “Các tổ chức các đoàn thể luật sư trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vẫn tạm giữ như cũ.. Sắc lệnh ngày 25 tháng 5 năm 1930 quy định những tổ chức ấy vẫn tạm thi hành với các điều sửa đổi sau này”. Những điều sửa đổi bao gồm: điều 5 (Sắc lệnh 25/5/1930) thay bằng điều 3 (Sắc lệnh 46/SL) với những quy định chặt chẽ để được liệt danh vào bảng luật sư tại Tòa Thượng thẩm Hà Nội hay Sài Gòn, đó là: có quốc tịch Việt Nam, không phân biệt nam, nữ; có bằng cử nhân luật; đã làm tập sự trong ba năm (kể từ ngày tuyên thệ) ở một Văn phòng luật sư thực thụ trong nước; có hạnh kiểm tốt; được bằng chứng nhận đã hết hạn tập sự và đủ tư cách làm luật sư thực thụ. Điều 4 của Sắc lệnh quy định về bầu Hội đồng luật sư, hoặc Ban luật sư thực thụ tùy theo địa hạt có mười văn phòng trở lên hay dưới mười văn phòng. Điều 5 của Sắc lệnh quy định những luật sư đã tập sự được mười tám tháng thì Hội đồng luật sư có thể cho phép tạm quản lý một văn phòng.
Sau Hiệp định Genève năm 1954, Việt Nam bị chia cắt hai miền với hai chế độ khác nhau: miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội; miền Nam còn trong vòng kiềm tỏa của đế quốc Mỹ. Ở miền Bắc, ngày 31 tháng 12 năm 1958, Quốc hội thông qua Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Hiến pháp thứ hai), trong đó điều 101 quy định: “Việc xét xử tại các Tòa án nhân dân đều công khai, trừ trường hợp đặc biệt do luật định. Quyền bào chữa của bị cáo được đảm bảo”. Ở miền Nam, trường Đại học Luật khoa Huế, Đà Lạt, Sài Gòn đào tạo nhiều cử nhân Luật, một số sinh viên tốt nghiệp cử nhân Luật được đào tạo để trở thành Luật sư và đã hành nghề. Trong các tòa Vi cảnh, tòa Sơ thẩm, tòa Đại hình, tòa Thượng thẩm đều có công tố viện và có luật sư tranh luận, bào chữa bảo vệ thân chủ. Luật sư có quyền tham gia trong giai đoạn điều tra, giai đoạn tranh tụng trước tòa.
Luật sư Trương Anh Tú, Đoàn luật sư TP Hà Nội.
Theo Dân Trí