Trước đây, trong thời gian khai phá phương Nam, họ Mạc đã xây dựng Hà Tiên thành thủ phủ. Tuy dưới quyền của nhà Nguyễn, nhưng dòng Mạc có những quyền tự trị nhất định, có quân đội, tài chính, ngoại giao riêng. Giai đoạn cực thịnh của "vương quốc họ Mạc" khi Mạc Thiên Tích làm Tổng binh trấn, đặc biệt hoạt động giao thương buôn bán rất phát triển.
Khu mộ của bà Hiếu Túc Thái Phu Nhân, vợ cả của Tổng Trấn Binh Mạc Thiên Tích hiện nay
Bài “sấm truyền” với bản đồ kho báu
Khi nói về dòng họ Mạc ở Hà Tiên, người ta vẫn hay kể rằng có một khối tài sản khổng lồ truyền đời cho hậu thế, và để con cháu họ Mạc đời sau biết đường tìm ra. Các bậc tiền nhân đã viết ra một bài thơ mà chỉ có người trong dòng họ mới hiểu được và hậu thế cứ dựa theo những nội dung hàm chứa chỉ dẫn ở trong đó mà suy thì việc truy tìm châu báu sẽ ra? Những quan điểm suy luận khác còn cho rằng, họ Mạc từng có một giai đoạn cực thịnh, thời kỳ Mạc Thiên Tích nối nghiệp cha, "quốc gia" này mạnh nhất, chế ngự cả vua Cao Miên.
Theo các tư liệu lịch sử, họ Mạc ở Hà Tiên có quân đội riêng, được phép in tiền riêng, chủ trương mở rộng giao thương với cả một số nước Bắc á và những nước Đông Nam á, họ có đội tàu buôn hùng hậu, tàu buôn các nước dập dìu cập cảng. Vậy thì hiển nhiên họ có thể ít nhiều có tài sản để lại cho đời sau? Hơn nữa, họ Mạc có nguồn gốc từ Trung Quốc, nên theo truyền thống táng mộ lối phong kiến xưa, chắc chắn khi quan tướng tạ thế ắt sẽ chôn theo tài sản. Hiện nay, tại núi Bình San ở thị xã Hà Tiên vẫn còn tồn tại một hệ thống lăng mộ tương đối lớn.
Nhiều ngày ở thủ phủ của "vương quốc" họ Mạc xưa, chúng tôi đã đặt lại vấn đề này. Qua tìm tòi từ nhiều nguồn tư liệu lịch sử, nhân chứng hậu thế, gặp gỡ chuyên gia nghiên cứu, chúng tôi nhận được nhiều quan điểm khác nhau.
Nhiều người đã truyền tai nhau những câu thơ: "Trời Tây bóng ngã chênh chênh/ Soi vào hang đá long lanh ngọc vàng/ Vàng trong hang đá/ Vàng chói sáng lòa/ Vọng lên lầu các nguy nga/ Ao sen nở trắng trước tòa khói hương". Tạm dịch ẩn ý của bài thơ là: Vào xế chiều, mặt trời chiếu từ hướng Tây, ở thời điểm đó bóng sẽ rọi đến nơi có chứa kho báu. Câu "soi vào hang đá long lanh ngọc vàng", từ "hang đá" ám chỉ khu lăng mộ, là khu mộ táng bằng thạch (aaà́) trong đó có hang, nơi đặt kho báu. Các từ "nguy nga", "lầu các", "sen nở" gợi lên một khối tài sản khổng lồ.
Ở một đoạn khác, người ta lại truyền rằng: "Bờ tre xanh xanh/ Hái lá nấu canh/ Canh ăn hết canh/ Vị cay thanh thanh". Cây này được giải nghĩa là: "Bờ tre xanh xanh" là bờ tre quanh núi Bình San trước đây, nơi có khu lăng mộ của họ Mạc bị phá hủy còn "canh ăn hết canh" cũng ứng với hết năm Canh Tuất (1910) thì ngôi mộ bị phá. Từ "vị cay" nghĩa là tân, ứng với Tết, đó là Tết Thanh Minh năm Tân Hợi (1911), kho báu bị phát hiện.
Như thế, nếu gộp ý nghĩa hai đoạn lại mà suy thì: Nếu con cháu không tìm ra kho báu thì vào năm 1911 sẽ có người đến lấy. Và lịch sử từng ghi nhận vào năm Tân Hợi (1911), một khu mộ trong dòng họ Mạc đã bị đào bới. Điều này càng tăng thêm độ tin cậy, khiến người ta đặt nghi vấn: Như vậy không chỉ có tính chất chỉ dẫn, đoạn thơ sấm truyền còn có thể dự báo cho hậu thế (hàng trăm năm sau) rằng sẽ có một ngày khu mộ bị phá?!.
Khu vực mộ của bà Hiếu Túc Thái Phu Nhân bị viên quan Pháp ra lệnh đào đất khai quật tìm kho báu
Theo những tư liệu của họ Mạc ghi lại từ lời kể của cụ Thiềm Văn Tường, con rể ông Mạc Tử Khâm (mất tháng 7 năm 1988) rằng: Đầu thế kỷ XX, Việt Nam dưới quyền cai trị của chế độ thực dân Pháp. Đứng đầu tỉnh Hà Tiên là viên Chánh Tham Biện Roux Serret, sau khi nghiên cứu kỹ về dòng họ Mạc cho rằng có kho báu cất giấu trong khu lăng mộ dòng họ này. Từ đó hắn lấy cớ đắp đường, xây lộ trong tỉnh lỵ Hà Tiên, rồi đào ao lấy đất và phá núi (núi Bình San ngày nay) lấy đá làm đường. Từ đó có nguyên cớ lật những ngôi mộ trong lăng họ Mạc tìm kho báu.
Những ngày đào đất đá ở núi Bình San, khi đào đến lăng mộ bà Hiếu Túc Thái Phu Nhân (vợ cả Mạc Thiên Tích), viên tỉnh trưởng huy động nhiều đoàn tù khổ sai làm cật lực, 10 ngày sau thì phá được nắp quan tài ra. Nhưng không như hắn nghĩ, số "kho báu" mà tên tham quan này có được cũng chỉ là một vài cái trâm, vòng trang sức đeo tai, cổ của nhà Phật... ít giá trị. Thế là hắn tức tốc đem trả lại cho con cháu họ Mạc, ra lệnh di chuyển mộ bà Hiếu Túc Thái Phu Nhân về khuôn viên khu mộ dòng Mạc (nay nhìn từ trên xuống cách mộ Mạc Cửu khoảng 20 m, nằm bên phải).
Sự thật hay là truyền thuyết về kho báu khổng lồ
Những sự việc kể trên có sự liên hệ với nhau theo đúng như bản chất hay chỉ là sự trùng hợp vô tình? Những tình tiết câu chuyện ly kỳ đến khó tin về tính chỉ dẫn và dự báo của bài "sấm truyền", câu chuyện mang tính ma mị về việc viên quan Pháp bị sét đánh té ngựa, cửa tam quan bị sập... tất cả xảy ra sau khi ngôi mộ bị phá, có phải bà Hiếu Túc Thái Phu Nhân hiển linh báo oán? Không ít người vẫn tin vào những câu chuyện được kể lại, nhưng riêng tôi vẫn thấy có cái gì đó trong những câu chuyện còn quá ma mị và khó tin. Vậy bản chất mấu chốt của vấn đề phải chăng là nguồn gốc của bài “sấm truyền”? Những điều trên do ai làm ra, dụng ý gì? Vì sao đã là bản đồ kho báu nội họ Mạc lại bị lộ ra ngoài và... mở được "chiếc khóa" này sẽ giải mã tất cả những nghi hoặc.
Cửa phải Tam quan lăng họ Mạc bị bịt kín, nơi viên quan Pháp bị sét đánh vì "động chạm hồn thiêng"
Chúng tôi tiếp tục tìm đến Nhà nghiên cứu Hà Tiên, ông Trương Minh Đạt, hiện nay ông là Phó ban quản lý di tích lịch sử núi Bình San. Khi đưa ra vấn đề kho báu, ông thật bất ngờ như lần đầu tiên nghe đến, ông còn không thể tin cái gọi là bài "sấm truyền", "bản đồ" kho báu. Sau khi nghe chúng tôi trình bày sự việc ông cười xòa, "tất cả chỉ là sự hiểu nhầm của lịch sử mà thôi", rồi ông trịnh trọng lấy ra một cuốn sách màu ố, lật từng trang cho tôi xem.
Và đoạn thơ "sấm truyền" hiện ra ngay trước mắt, xen lẫn những dòng văn, nhìn trang bìa thì hóa ra đây lại là một tác phẩm văn học mang tên "Nàng ái Cơ trong chậu úp" của tác giả Mộng Tuyết, vợ của tác gia lớn Đông Hồ ở Hà Tiên. Đây là tác phẩm bà viết theo thể loại Ngoại ký sự tiểu thuyết, có tính chất văn học. Đoạn thơ người ta gọi là "sấm truyền" trên nằm trong chương X mang tên Tiểu Thư Mạc Minh cô. Nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt khẳng định: "Tất cả nội dung hai đoạn thơ đó do bà Mộng Tuyết hư cấu mà ra, hoàn toàn không liên quan gì đến kho báu".
Để thuyết phục hơn, chúng tôi lại tìm đến kho sách nhà lưu niệm Đông Hồ, nơi cuối đời của nữ sĩ Mộng Tuyết, nay là bà Lâm Thị Hoa (cháu nhà thơ Đông Hồ) trông giữ. Bà Hoa cho biết "tác phẩm này do bà Mộng Tuyết viết tại Sài Gòn (cũ) vào khoảng 1959-1960, chứ không phải viết ở Hà Tiên, do NXB Bốn Phương, Viện văn nghệ- Hiên sáng tác ấn hành năm 1960.
Tác phẩm ra đời đã gây ra sự hiểu nhầm, nhiều lần vợ chồng Mộng Tuyết- Đông Hồ phải đính chính", thật khó tin nay "lịch sử nhầm lẫn" lần nữa bị lặp lại. ở khía cạnh lịch sử, đoạn thơ ra đời cách thời đại của họ Mạc hàng trăm năm (Mạc Cửu khai phá Hà Tiên vào năm 1700) thì càng quá vô lý khi lời "sấm truyền", hay "bản đồ kho báu" lại do người đời sau làm ra cho người đời trước. Chuyện này cũng không hề liên quan đến cuộc khai quật lăng mộ của viên quan Pháp vào tháng 3/1911.
Mặc dù đã có những chứng kiến lịch sử nhất định tuy nhiên sự thật họ Mạc có kho báu hay không đến nay vẫn là bí ẩn của người thiên cổ? Hay kho báu vẫn chỉ là truyền thuyết và do tiểu thuyết hư cấu mà ra... Hiện nay, hơn 40 ngôi mộ của dòng họ Mạc vẫn yên vị trên núi Bình San thơ mộng và thanh tịnh và ẩn chứa trong nó bao nhiêu bí ẩn của một dòng họ nổi tiếng đất Hà Tiên xưa.
Kỳ Anh