7 cách phòng ngừa nhồi máu cơ tim cấp, tránh nguy cơ ngừng tim
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc vừa cấp cứu thành công bệnh nhân N.Đ.T (nam, 57 tuổi, trú tại huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc) bị nhồi máu cơ tim cấp được chuyển từ tuyến dưới đến.
Trước đó, bệnh nhân được người nhà đưa vào cấp cứu ở Trung tâm Y tế huyện Vĩnh Tường trong tình trạng ngừng tim. Các bác sĩ nhanh chóng tiến hành cấp cứu theo phác đồ ngừng tuần hoàn, ngừng tim phổi, ép tim ngoài lồng ngực, dùng thuốc vận mạch và liên tục hội chẩn trực tuyến liên viện với bác sĩ cấp cứu Trung tâm Tim mạch - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc.
Qua hình ảnh phát trực tuyến, ThS.BSCKII. Cao Việt Cường - Trưởng Khoa Can thiệp tim và mạch máu nhận thấy người bệnh có tình trạng của rung thất, rối loạn nhịp tim, ngừng tim và cần được cấp cứu ngừng tuần hoàn chuyên sâu hơn.
Ngay lập tức, bệnh viện đã cử ê-kíp cấp cứu xuống Trung tâm Y tế huyện Vĩnh Tường hỗ trợ đặt máy tạo nhịp tạm thời. Sau 30 phút tích cực cấp cứu, nhịp tim của người bệnh đã đập trở lại, nhịp xoang đều, huyết áp cũng được cải thiện.
Sau hội chẩn, người bệnh được chẩn đoán ngừng tim do nhồi máu cơ tim cấp, cần nhanh chóng chuyển đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc thực hiện can thiệp mạch cấp cứu.
Qua trường hợp này, các bác sĩ tim mạch khuyến cáo, bệnh mạch vành, nhồi máu cơ tim cấp xuất hiện ngày càng nhiều ở mọi giới tính, mọi lứa tuổi và đang có xu hướng trẻ hóa, đặc biệt với người bệnh có tiểu sử bệnh nền như tăng huyết áp, tiểu đường, rối loạn mỡ máu, béo phì… Vì vậy, nếu có triệu chứng đau tức ngực, vùng xương ức có dấu hiệu nặng nề, khó thở, mệt mỏi, vã mồ hôi thì cần ngay lập tức đến các cơ sở y tế gần nhất để được chẩn đoán và điều trị kịp thời trong thời gian "vàng", tăng khả năng cứu sống người bệnh.
Nhồi máu cơ tim cấp là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong với tỷ lệ mắc phải ngày một tăng. Nhờ những tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị nhồi máu cơ tim mà tỷ lệ tử vong đã giảm đáng kể xuống chỉ còn khoảng 7%.
Theo ThS.BSCKII. Cao Việt Cường, nguyên nhân dẫn đến nhồi máu cơ tim cấp tính là giảm lưu lượng máu mạch vành dẫn đến thiếu máu cơ tim, xảy ra chủ yếu do tình trạng xơ vữa động mạch. Cơ tim được nuôi dưỡng bởi động mạch vành trái và động mạch vành phải. Khi các mảng xơ vữa hình thành trên động mạch vành, nó gây hẹp lòng động mạch làm giảm lưu lượng máu. Khi mảng xơ vữa bị vỡ sẽ tạo điều kiện hình thành cục máu đông lấp toàn bộ lòng mạch, gây ra cơn nhồi máu cơ tim cấp.
Thực tế, nếu mảng xơ vữa không vỡ ra mà cứ phát triển âm thầm gây hẹp thì cũng không gây ra nhồi máu cơ tim cấp. Nếu xơ vữa động mạch vỡ ít và cục máu đông được hình thành sau đó không lấp kín toàn bộ lòng mạch thì nó cũng không gây nhồi máu cơ tim cấp mà chỉ gây ra cơn đau thắt ngực không điển hình.
Ngoại trừ các yếu tố nguy cơ không thể thay đổi (tuổi tác, giới tính, tiền sử gia đình), hầu hết các yếu tố nguy cơ khác có thể kiểm soát được để hạn chế nguy cơ xơ vữa động mạch và nhồi máu cơ tim, bao gồm:
- Kiểm tra sức khỏe định kỳ: Nên đi khám sức khỏe mỗi năm 1 lần để phát hiện các dấu hiệu cảnh báo sớm của bệnh tim như chỉ số huyết áp, lượng đường trong máu, mức cholesterol, bất thường mạch máu…
- Bỏ thuốc: Bao gồm thuốc lá, thuốc lào, xì gà và kể cả thuốc lá điện tử; đồng thời, tránh tiếp xúc với khói thuốc thụ động.
- Tập thể dục thường xuyên: Hãy tập thể dục hoặc chơi thể thao ít nhất 30 phút mỗi ngày (cường độ vừa) hoặc tập luyện ít nhất 15 phút mỗi ngày (cường độ cao), ít nhất 5 ngày mỗi tuần.
- Có chế độ ăn uống lành mạnh: Ăn nhiều rau xanh, trái cây, củ quả, các loại hạt và ngũ cốc nguyên hạt. Hạn chế thực phẩm nhiều cholesterol, chất béo bão hòa, muối và đường bổ sung. Nên ăn nhiều cá béo vì chúng chứa omega-3 rất tốt cho tim mạch.
- Duy trì cân nặng hợp lý: Nếu bị thừa cân béo phì thì nên tăng cường tập luyện kết hợp với giảm ăn để giảm cân một cách lành mạnh.
- Học cách quản lý căng thẳng: Lên lịch làm việc, sắp xếp công việc hợp lý, tránh tự tạo áp lực cho bản thân, tập hít thở, yoga hoặc thiền.
- Kiểm soát các bệnh lý hiện có: Uống thuốc theo chỉ định của bác sĩ và tái khám thường xuyên.
Nếu đã từng bị nhồi máu cơ tim thì cần tham gia phục hồi chức năng tim và kiểm soát tốt các yếu tố nguy cơ để hạn chế khả năng bị nhồi máu cơ tim lần thứ hai. Việc tập thể dục, có chế độ ăn uống, lối sống lành mạnh, kiểm soát các bệnh lý nền và kiểm tra sức khỏe thường xuyên cần được duy trì suốt đời.
Ba thói quen hại thận phổ biến ở người trẻ
Theo bác sĩ chuyên khoa I Phạm Minh Khôi, khoa Nội thận, Bệnh viện Chợ Rẫy, ăn mặn, nhậu nhiều, thức khuya đều là những thói quen gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe. Dù không phải là nguyên nhân trực tiếp gây suy thận, chúng được liệt vào nhóm các yếu tố nguy cơ, thúc đẩy làm suy thận tiến triển nặng hơn.
Nhậu nhiều đối với những người có bệnh gan mạn tính rất dễ dẫn đến các bệnh lý xơ gan, suy gan, ung thư gan. Đặc biệt, bệnh nhân mắc suy gan rất dễ dẫn đến suy thận. Lúc này, người bệnh có thể mắc "combo bệnh lý" vừa suy gan vừa suy thận.
Bên cạnh đó, mồi nhậu cần phải là thực phẩm đảm bảo vệ sinh, được chế biến lành mạnh. Nếu không được chế biến đảm bảo hợp vệ sinh, quá nhiều gia vị, món ăn có thể là chất xúc tác dễ dẫn đến suy gan, suy thận.
Suy thận mạn thường diễn tiến âm thầm và không có triệu chứng cụ thể. Chỉ khi tiến triển nặng, bệnh mới xuất hiện triệu chứng nhưng dễ gây nhầm lẫn với các bệnh lý khác.
Người mắc bệnh suy thận có thể có các triệu chứng như mệt mỏi, hoa mắt, chóng mặt, buồn nôn, chán ăn, xanh xao.
Một số dấu hiệu khác đặc hiệu hơn của người bệnh thận là phù tay chân, nặng hơn là khó thở, rối loạn nhịp tim, rối loạn nhận thức. Khi xuất hiện những triệu chứng này, bệnh nhân có thể đã mắc suy thận mạn ở giai đoạn rất nặng.
Suy thận mạn thường diễn tiến âm thầm. Mọi người nên thường xuyên đi khám tổng quát, làm các xét nghiệm tại các phòng khám chuyên khoa để sớm phát hiện và điều trị bệnh.
Hơn 1/3 dân số thế giới đối diện vấn đề thần kinh
Theo thông cáo báo chí toàn cầu được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) phát đi hôm 15-3, hơn 1/3 dân số thế giới đang bị ảnh hưởng bởi các rối loạn thần kinh, nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật và tàn tật trên toàn thế giới.
Con số này tương đương với hơn 3 tỉ người phải đối diện với vấn đề thời đại này.
Đó là kết quả từ một nghiên cứu vừa được công bố trên tạp chí y học The Lancet Neurology, mà WHO đã đóng góp vào việc phân tích dữ liệu Nghiên cứu về gánh nặng bệnh tật, thương tích và yếu tố rủi ro toàn cầu (GBD) năm 2021.
Theo WHO, tổng số trường hợp khuyết tật, bệnh tật và tử vong sớm do các vấn đề thần kinh gây ra đã tăng 18% kể từ năm 1990.
Hơn 80% số ca tử vong và mất sức khỏe do rối loạn thần kinh xảy ra ở các nước thu nhập thấp và trung bình, nơi số lượng chuyên gia thần kinh trên 100.000 dân thấp hơn tới 70 lần so với các nước thu nhập cao
TS Tedros Adhanom Ghebreyesus, Tổng Giám đốc WHO cho biết: "Nghiên cứu này sẽ đóng vai trò như một lời kêu gọi hành động khẩn cấp nhằm mở rộng các biện pháp can thiệp có mục tiêu nhằm cho phép ngày càng nhiều người mắc bệnh thần kinh được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc, điều trị và phục hồi chức năng có chất lượng mà họ cần.
Mười dạng rối loạn thần kinh hàng đầu góp phần làm suy giảm sức khỏe là đột quỵ, bệnh não sơ sinh (chấn thương não), đau nửa đầu, mất trí nhớ, bệnh thần kinh do tiểu đường (tổn thương dây thần kinh), viêm màng não, động kinh, biến chứng thần kinh do sinh non, rối loạn phổ tự kỷ và vấn đề thần kinh trong bệnh ung thư.
Nhìn chung, các tình trạng thần kinh gây ra nhiều khuyết tật và suy giảm sức khỏe ở nam giới hơn so với phụ nữ. Dù vậy, một số tình trạng như chứng đau nửa đầu hoặc chứng mất trí nhớ thì phụ nữ bị ảnh hưởng nhiều hơn.
Kể từ năm 1990, số lượng những người sống chung hoặc chết vì các bệnh lý thần kinh đã tăng lên, chủ yếu được thúc đẩy bởi sự thay đổi về nhân khẩu học và việc con người sống lâu hơn.
Bệnh thần kinh tiểu đường là tình trạng thần kinh gia tăng nhanh nhất, tăng hơn gấp 3 lần trên toàn cầu kể từ năm 1990, lên tới 206 triệu trường hợp vào năm 2021.
Các tình trạng khác như biến chứng thần kinh do COVID-19 (ví dụ suy giảm nhận thức và hội chứng Guillain-Barré) trước đây không tồn tại và hiện chiếm hơn 23 triệu trường hợp.
Gánh nặng thần kinh và tổn thất sức khỏe do các tình trạng khác đã giảm trên 25% kể từ năm 1990 nhờ công tác phòng ngừa - bao gồm vắc-xin - chăm sóc và nghiên cứu được cải thiện.
Đó là các vấn đề thần kinh liên quan đến uốn ván, bệnh dại, viêm màng não, khuyết tật ống thần kinh, đột quỵ, bệnh u nang thần kinh (nhiễm ký sinh trùng ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương), viêm não và bệnh não ở trẻ sơ sinh.
T.M (tổng hợp)