Luật sư Toàn Thắng (Đoàn LS TP Hà Nội) trả lời:
Theo quy định tại Điều 707 Bộ luật dân sự năm 2005 thì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, phải được làm thủ tục và đăng ký tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định của pháp luật đất đai.
Một số Điều luật khác trong Chương III Bộ luật dân sự cũng có những quy định chặt chẽ về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Ví dụ Điều 705,706,708…
Khi hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng dất có tranh chấp thì đương sự khởi kiện tại Tòa án. Nếu người đi kiện không xuất trình (không nộp) cho Tòa án Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vì việc chuyển nhượng này không có văn bản mà bằng miệng, thì Tòa án chưa thụ lý vụ kiện. Tòa án có thể yêu cầu đương sự bổ sung tài liệu trong một thời hạn do Tòa án ấn định. Nếu hết thời hạn nêu trên mà đương sự không bổ sung được tài liệu thì căn cứ khoản 2 Điều 169 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án trả lại đơn và các tài liệu kèm theo đơn. Tòa án không được thụ lý vụ kiện.
Trường hợp của bạn, do khi thỏa thuận “mua bán” đất với ông A lại không lập thành văn bản, không tiến hành công chứng giao dịch tại cơ quan có thẩm quyền nên Tòa án sẽ không có cơ sở để thụ lý vụ án.
Biên tập viên