Bên cạnh yếu tố con người, theo nhiều chuyên gia, chất lượng hoạt động tranh tụng tại phiên tòa thời gian qua bị hạn chế còn có nguyên nhân sâu xa là BLTTHS chưa ghi nhận nguyên tắc tranh tụng thành một nguyên tắc cơ bản…
Về mặt chủ trương, Nghị quyết 08 ngày 2-1-2002 của Bộ Chính trị đã xác định: “Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư… tranh luận dân chủ tại phiên tòa”, “việc phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa”. Tiếp đó, trong chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Nghị quyết 49 ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị cũng yêu cầu: “Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả phiên tòa xét xử, coi đây là hoạt động đột phá của các cơ quan tư pháp”.
Phải luật hóa thành nguyên tắc tố tụng
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, vấn đề quan trọng nhất là cho đến nay, BLTTHS vẫn chưa ghi nhận nguyên tắc tranh tụng thành một nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Chính vì vậy mà hoạt động tranh tụng đã không được hiện thực hóa bằng các điều luật cụ thể.
Muốn hoạt động tranh tụng đi vào thực chất thì phải luật hóa nguyên tắc tranh tụng trong BLTTHS.
Bốn năm trước, trong đợt góp ý sửa đổi BLTTHS 2003, PGS-TS Nguyễn Thái Phúc (hiện là Giám đốc Học viện Tư pháp) đã gửi tới cho tờ báo một bài viết rất sâu sắc và tâm huyết về vấn đề này. Theo ông, các quy định về phiên tòa sơ thẩm của BLTTHS 1988 và BLTTHS 2003 không có khác biệt đáng kể. BLTTHS 2003 vẫn không ghi nhận nguyên tắc tranh tụng là nguyên tắc cơ bản. Để tăng cường tranh tụng theo yêu cầu của cải cách tư pháp thì cần phải hoàn thiện BLTTHS 2003, ghi nhận tranh tụng thành một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam vì đó là quy luật khách quan của hoạt động tố tụng hình sự.
Theo TS Phúc, để có thể tạo ra sự chuyển biến tích cực, giải pháp trước mắt là tăng cường tính tranh tụng của phiên tòa sơ thẩm, coi đây là khâu đột phá theo tinh thần Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị. Muốn làm vậy thì ngoài việc ghi nhận nguyên tắc tranh tụng, các nhà làm luật cần phải sửa đổi một loạt quy định như bỏ trách nhiệm chứng minh tội phạm của tòa, bỏ quy định HĐXX có quyền khởi tố vụ án, sửa quy định tòa trả hồ sơ để điều tra bổ sung, thay đổi thủ tục xét hỏi…
Có tính bắt buộc thực hiện
Trong những lần trao đổi với báo chí về vấn đề tranh tụng trước đây, tất cả chuyên gia mà chúng tôi đã tiếp xúc đều ủng hộ quan điểm của TS Phúc, kể cả những người mà giới luật sư hay “kêu ca” nhất là giới kiểm sát viên. Chẳng hạn, theo kiểm sát viên cao cấp Võ Văn Thêm (Viện Phúc thẩm III VKSND Tối cao), luật cần ghi nhận nguyên tắc tranh tụng vì tranh tụng đảm bảo tính khách quan và giúp làm rõ chân lý của vụ án thông qua các chứng cứ, để đi đến một cái đích cao nhất là sự thật vụ án, tránh oan, sai cho người vô tội.
Theo luật sư Đặng Trường Thanh (Đoàn Luật sư TP.HCM), việc ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong BLTTHS dẫn đến một hệ quả tất yếu là nguyên tắc này sẽ được cụ thể hóa bằng các quy định riêng trong bộ luật này cũng như các văn bản hướng dẫn dưới luật. Các quy định riêng này có tính bắt buộc thi hành với các cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng, sẽ tạo ra sự thống nhất trong việc vận dụng pháp luật. Như vậy, hoạt động tranh tụng sẽ không chỉ dừng lại ở mặt chủ trương trong cải cách tư pháp mà thật sự đi vào đời sống tố tụng hình sự.
TS Phúc đánh giá: Luật hóa nguyên tắc tranh tụng, đương nhiên VKS sẽ mất “chỗ dựa”, không thể không tham gia tranh tụng tích cực. Một khi VKS sẵn sàng tranh tụng tức việc truy tố đã được cân nhắc thận trọng từ chứng cứ đến tội danh. Mà chứng cứ lại do cơ quan điều tra thu thập. Do vậy, để có thể tự tin tranh tụng sòng phẳng với bên bào chữa thì VKS không thể dễ dãi với kết quả điều tra.
Mở rộng tranh tụng từ giai đoạn điều tra? TS Nguyễn Thái Phúc còn đề xuất mở rộng hoạt động tranh tụng ngay từ giai đoạn điều tra. BLTTHS 2003 ghi nhận sự tham gia của người bào chữa khi có quyết định tạm giữ và bổ sung một số quyền của người bào chữa. Quy định tiến bộ nhưng thực tế chưa tạo sự thay đổi như mong đợi do không được cụ thể hóa, thiếu những bảo đảm tố tụng kèm theo. Để khắc phục thì chỉ cần bổ sung sự tham gia bắt buộc của người bào chữa trong hai thời điểm quan trọng: Thời điểm lấy lời khai đầu tiên sau khi có quyết định khởi tố bị can và thời điểm bị can nhận tội. Mọi lời khai của bị can trong hai thời điểm trên mà không có sự hiện diện của người bào chữa thì không được thừa nhận là chứng cứ… Chuyện bi hài về tranh tụng Luật sư Trần Công Ly Tao (Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP.HCM) kể, cuối năm 2011, ông bào chữa trong một vụ các học viên trại cai nghiện gây gổ đánh nhau dẫn đến chết người. Tại phiên phúc thẩm, mỗi lần luật sư Ly Tao tham gia xét hỏi thì một thẩm phán cánh gà đều tỏ vẻ không hài lòng: “Luật sư hỏi dài quá, mất thời gian quá!”. Đến phần tranh luận, vị thẩm phán này lại “nháy nháy” chủ tọa ý là “cắt” bớt thời gian tranh luận để còn xử vụ án tiếp theo. Lần khác, trong một vụ trộm cắp tài sản tại TAND một huyện của tỉnh Đ., khi luật sư Ly Tao bắt đầu bài bào chữa thì chủ tọa đứng dậy bỏ ra ngoài nghe điện thoại. Khoảng 2 phút sau chủ tọa quay trở lại rồi cúi xuống nhắn tin điện thoại. Sau đó, chủ tọa lại tựa đầu vào thành ghế mắt lim dim như đang rất… buồn ngủ và mệt mỏi. Luật sư bào chữa xong, chủ tọa vẫn ngồi bất động, phải nhờ một vị hội thẩm khều khều, chủ tọa mới bật dậy tiếp tục điều khiển phiên tòa. Xử một vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở TAND một huyện, khi thấy bị cáo cãi bảo mình bị oan, một vị thẩm phán chủ tọa nóng mặt quát: “Bị cáo là người vô nhân đạo. Đã nhận tiền của người ta thì phải đi bán dâm chứ ai nhận tiền rồi lại xù như thế. Làm ăn như thế là mất uy tín...”. Cuối năm 2010, TAND tỉnh B. xử phúc thẩm một vụ giết người theo kháng cáo kêu oan của bị cáo. Sau khi công tố viên phát biểu quan điểm bác kháng cáo, tranh luận lại, bị cáo vẫn một mực nói mình oan. Chủ tọa ngồi bật dậy, gắt: “Cãi gì nữa”. Nói rồi ông đập đập tay lên chồng hồ sơ: “Chứng cứ rành rành thế này mà cứ cãi kêu oan hoài, ngồi xuống ngay đi. Loanh quanh chối tội hoài”. |
Theo Thanh Tùng (Pháp luật TP Hồ Chí Minh)