Theo Luật Viên chức hiện đang còn hiệu lực, khi trúng tuyển viên chức, người trúng tuyển sẽ được ký kết hai loại hợp đồng làm việc:
- Hợp đồng làm việc có thời hạn: Hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong thời gian từ 12 đến 36 tháng trừ trường hợp cán bộ, công chức chuyển sang làm viên chức tại đơn vị sự nghiệp công lập…
- Hợp đồng làm việc không có thời hạn: Hai bên không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng, áp dụng với người đã thực hiện xong hợp đồng làm việc xác định thời hạn và cán bộ, công chức chuyển thành viên chức…
Tuy nhiên, khi Luật sửa đổi, bổ sung 2019 chính thức có hiệu lực, các đối tượng được áp dụng 2 loại hợp đồng này có sự thay đổi đáng kể.
Với những người được tuyển dụng mới từ 1/7/2020, sau khi hợp đồng xác định thời hạn hết hạn, nếu đơn vị sự nghiệp công lập vẫn còn nhu cầu sử dụng viên chức sẽ phải ký tiếp hợp đồng xác định thời hạn mà không được chuyển sang hợp đồng không xác định thời hạn như hiện nay.
Như vậy, người được tuyển dụng mới từ ngày 1/7/2020 sẽ không còn được hưởng chế độ “biên chế suốt đời” nữa.
Tuy nhiên, để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của viên chức được tuyển dụng trước ngày 1/7/2020, Luật sửa đổi có quy định hợp đồng làm việc không xác định thời hạn áp dụng với viên chức được tuyển dụng trước ngày 1/7/2020
Đồng thời, tại khoản 10 Điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung Luật Viên chức năm 2019 đã bổ sung thêm quy định về hướng giải quyết với những viên chức được tuyển dụng trước ngày 1/7/2020 nhưng chưa ký hợp đồng làm việc không xác định thời hạn.
Theo đó, những đối tượng này sẽ được tiếp tục thực hiện hợp đồng đã ký kết. Sau khi hết thời hạn của hợp đồng làm việc đã ký kết thì được ký hợp đồng không xác định thời hạn nếu đáp ứng đầy đủ yêu cầu theo quy định.
Như vậy, những đối tượng được tuyển dụng trước 1/7/2020 nếu đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn, điều kiện thì vẫn được ký hợp đồng làm việc không xác định thời hạn hay thường gọi là "biên chế suốt đời".
Thêm trường hợp được đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc
Điều 29 Luật hiện hành quy định có 5 trường hợp đơn vị sự nghiệp công lập được đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc với viên chức:
- Có hai năm liên tiếp bị phân loại đánh giá ở mức không hoàn thành nhiệm vụ.
- Bị buộc thôi việc do vi phạm các quy định của pháp luật trong quá trình thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ; Bị Tòa án kết án phạt tù mà không được hưởng án treo, bị Tòa án kết án về hành vi tham nhũng kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
- Viên chức làm việc theo Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn bị ốm đau, đã điều trị liên tục 12 tháng; Viên chức làm việc theo Hợp đồng xác định thời hạn bị ốm đau, điều trị liên tục 6 tháng mà khả năng làm việc chưa hồi phục.
- Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác làm cho đơn vị sự nghiệp công lập buộc phải thu hẹp quy mô, khiến vị trí việc làm của viên chức đang đảm nhận không còn.
- Khi đơn vị sự nghiệp công lập chấm dứt họat động theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Như vậy, theo quy định hiện hành, có 5 trường hợp viên chức sẽ bị đơn phương cắt Hợp đồng làm việc.
Bởi 5 trường hợp đơn phương chấm dứt Hợp đồng làm việc theo quy định hiện hành chưa được đầy đủ và đồng bộ với quy định tại các Nghị định hướng dẫn nên Luật sửa đổi Viên chức đã có một số điều chỉnh.
Cụ thể, khoản 4 Điều 2 Luật Viên chức sửa đổi nêu rõ:
- Trường hợp “viên chức có 2 năm liên tiếp bị phân loại đánh giá ở mức không hoàn thành nhiệm vụ” được sửa thành “viên chức có 2 năm liên tiếp bị xếp loại chất lượng ở mức không hoàn thành nhiệm vụ”. (Nhằm đồng bộ quy định với nội dung xếp loại chất lượng tại Luật này).
- Bổ sung trường hợp “viên chức không đạt yêu cầu sau thời gian tập sự”.
Hiện nay, theo khoản 2 Điều 27 Luật hiện hành, thời gian tập sự của viên chức là từ 3 đến 12 tháng và được quy định trong Hợp đồng làm việc.
Tuy nhiên, Luật lại chưa nêu hướng giải quyết trong trường hợp người mới được tuyển dụng chấm dứt thời gian tập sự mà mới chỉ được nêu tại Điều 24 Nghị định 29/2012/NĐ-CP. Theo đó, sau khi đánh giá phẩm chất, đạo đức, kết quả công việc của người tập sự thì người đứng đầu đơn vị sự nghiệp sẽ:
- Nếu đạt yêu cầu: Quyết định hoặc làm văn bản đề nghị ra quyết định bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp;
- Nếu không đạt yêu cầu: Chấm dứt Hợp đồng làm việc.
Do đó, việc chính thức đưa quy định “Viên chức không đạt yêu cầu sau thời gian tập sự sẽ bị đơn phương chấm dứt Hợp đồng làm việc” vào Luật tạo sự thuận lợi hơn khi áp dụng vào từng trường hợp cụ thể.
Khi nào viên chức được hưởng trợ cấp thôi việc?
Theo quy định tại Điều 45 Luật Viên chức hiện đang còn hiệu lực, viên chức chỉ được hưởng trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm hoặc chế độ bảo hiểm thất nghiệp khi chấm dứt hợp đồng lao động trừ 3 trường hợp sau:
- Bị buộc thôi việc.
- Đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc nhưng không thông báo bằng văn bản trước ít nhất 30 ngày khi gia đình hoặc bản thân có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng; Không được trả lương đầy đủ nhưng không báo trước ít nhất 3 ngày…
- Chấm dứt hợp đồng làm việc khi được bổ nhiệm giữ chức vụ quy định là công chức hoặc có quyết định nghỉ hưu.
Do đó, hiện nay, viên chức chỉ được hưởng trợ cấp thôi việc khi chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 45 nêu trên.
Tuy nhiên, khi Luật Viên chức sửa đổi chính thức có hiệu lực từ 01/7/2020 sắp tới đây, quy định về chế độ trợ cấp thôi việc của viên chức có nhiều thay đổi theo hướng cụ thể, chi tiết hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho viên chức áp dụng vào thực tiễn.
Cụ thể, Điều 45 Luật hiện hành được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 6 Điều 2 Luật Viên chức sửa đổi, bổ sung năm 2019.
Theo đó, có 4 trường hợp viên chức thôi việc được hưởng trợ cấp thôi việc gồm:
- Đơn vị sự nghiệp công lập đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc với viên chức.
- Hết thời hạn của hợp đồng nhưng người sử dụng lao động không ký tiếp hợp đồng làm việc.
- Viên chức đơn phương chấm dứt hợp đồng do ốm đau, bị tai nạn đã điều trị 6 tháng liên tục.
- Viên chức đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động khi không được bố trí đúng vị trí việc làm, địa điểm làm việc cũng như các điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng; không được trả lương đầy đủ hoặc đúng hạn; Bị ngược đãi, cưỡng bức lao động…
Để được giải quyết thôi việc, viên chức có nguyện vọng phải gửi văn bản đến người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập.
Trong thời hạn 20 ngày làm việc kể từ ngày nhận đơn, nếu đồng ý thì viên chức sẽ nhận được quyết định chấm dứt hợp đồng làm việc. Ngược lại, viên chức sẽ nhận được văn bản trả lời với lý do không đồng ý cho thôi việc.
Hoàng Mai