Tài sản quốc gia
Tuồng là nghệ thuật bác học, có nhà nghiên cứu sân khấu đã đưa ra nhận định, hát tuồng là opera của Việt Nam. Tuồng là nghệ thuật tả ý không tả thực như kịch phương Tây vì thế nó được diễn ước lệ, cũng như chèo, tuồng có thể diễn tả không gian và thời gian rất đơn giản, dễ dàng. Diễn viên cầm cái roi là khán giả biết anh ta đang cưỡi ngựa vì cái roi tượng trưng cho con ngựa. Hoặc diễn viên chỉ cần khua tay, khán giả biết họ đang chèo thuyền sang sông. Diễn tuồng phải theo trình thức khắt khe, không thể tùy tiện.
Hóa trang mặt nhân vật tuồng là cả nghệ thuật. Nhân vật trung khác, nhân vật phản diện khác. Có câu:
Người trung mặt đỏ đôi tròng bạc
Đứa nịnh râu đen mấy sợi còi
Những câu hát trong tuồng không chỉ để đối thoại hay nhân vật bộc bạch gan ruột mà câu hát còn chứa đựng triết lý nhân sinh, chẳng hạn: “Lao xao sóng vỗ ngọn tùng/Gian nan là nợ anh hùng phải vay”.
Ở đất tuồng Bình Định, trẻ sinh ra đã nghe hát tuồng. Lớn lên, nghệ thuật này đã ngấm vào máu lúc nào không biết để rồi mê mẩn: “Bỏ cửa bỏ nhà vì ma hát Bội”. Còn trong ca dao Việt Nam có câu:
Tháng Ba ngày Tám nằm suông
Nghe tiếng trống tuồng bế bụng đi xem
Câu ca dao ấy cho thấy người Việt xưa rất yêu thích bộ môn nghệ thuật này ngay cả khi họ không có gì ăn. Thời nhà Lê, xã hội chỉ có “sĩ, nông, công, thương” hát xướng không được coi là nghề và bị xếp là “xướng ca vô loài” thế nhưng vua chúa vẫn thường xem vì các vở tuồng bao giờ cũng ca ngợi trung quân.
Khi nhà Lê cấm chèo vì chèo hay châm chọc thì tuồng càng được coi trọng. Đến đời Nguyễn, tuồng trở thành “quốc kịch”. Đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của tuồng với tên tuổi như: Đào Tấn, Đào Duy Từ, Nguyễn Hiển Dĩnh...
Nửa đầu thế kỷ 20, tuy đã qua thời kỳ hoàng kim nhưng tuồng vẫn sống. Ở miền Nam một số thầy tuồng đã làm mới để thu hút khán giả. Trong khi đó ở miền Bắc từ những năm 1960 đến trước năm 1985 lại là đỉnh cao lần thứ hai của môn nghệ thuật này.
Ngoài các đoàn tuồng chuyên nghiệp như: Đoàn Tuồng Bắc, Liên khu Năm, Thanh Hóa... thì ở các địa phương là nôi của nghệ thuật tuồng đều lập đội nghiệp dư, xã có bao nhiêu thôn thì có bấy nhiêu đội tuồng. Sau ngày đất nước thống nhất bên cạnh các đoàn tuồng có từ trước thì Nhà nước cũng đầu tư xây dựng các đoàn ở Huế, Đà Nẵng, Bình Định, TP. HCM...
Tuồng chuyên nghiệp xen lẫn nghiệp dư diễn vở cổ, diễn tuồng đồ được khán giả đón nhận đã làm sống động nghệ thuật truyền thống.
Vì sao khán giả thờ ơ với tuồng?
Rạp Hồng Hà hiện thuộc quyền quản lý của nhà hát Tuồng Việt Nam. Rạp có 339 ghế ngồi nhưng chỉ được sử dụng khi có chương trình lớn. Từ năm 2000, rạp bắt đầu chương trình quảng bá nghệ thuật kết hợp tour du lịch, nhằm đưa tuồng đến gần với khán giả hơn.
Hàng tuần rạp mở cửa đón khách vào tối thứ Hai và thứ Năm nhưng không diễn trên sân khấu chính mà diễn ở sảnh rạp.
Những hôm đông khách là có khách tour còn phần lớn các đêm diễn lèo tèo khách. Từ năm 2016, nhà hát Tuồng Việt Nam phối hợp ban quản lý phố cổ đưa tuồng vào chương trình giao lưu nghệ thuật miễn phí ở phố Mã Mây. Nhưng ngoài khách du lịch, khán giả đến xem tuồng thường là người lớn tuổi, có rất ít khán giả trẻ.
NSND Lê Tiến Thọ, Chủ tịch hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam, người từng là diễn viên tuồng thừa nhận, khán giả hiện nay, nhất là người trẻ, đang thờ ơ với nghệ thuật truyền thống, trong đó có tuồng. Nguyên nhân khách quan là giới trẻ có quá nhiều sự lựa chọn các món ăn tinh thần, từ ca nhạc, phim điện ảnh, phim truyền hình đến các chương trình gameshow giải trí và rất nhiều trò khác trên mạng. Nguyên nhân chủ quan cũng nhiều.
Đề tài của tuồng chủ yếu là trung quân ái quốc, ngợi ca đạo lý trung với vua và yêu nước. Ngôn ngữ đối thoại và hát có nhiều từ Hán-Việt nên không phải ai cũng có thể hiểu được. Và khi xem cứ phải căng tai để nghe lời vì thế xem xong một vở tuồng là rất mệt.
Thêm nữa, tiết tấu của vở diễn thường chậm chạp khiến khán giả trẻ tuổi sốt ruột. Ngày xưa nguyên nhân chủ quan cũng như vậy tại sao nghệ thuật này vẫn có nhiều khán giả? Vì ngày xưa người ta diễn đi diễn lại một vở nên xem một lần chưa hiểu thì xem lần thứ hai, thứ ba. Nếu khán giả trẻ không hiểu thì hỏi người lớn sẽ được giải thích. Còn ngày nay nếu không hiểu cũng chẳng biết hỏi ai.
Nếu không có bà đỡ tương lai tuồng sẽ chết
Có hai nỗi lo hiện hữu từ nhiều năm nay đối với nghệ thuật truyền thống nói chung và sân khấu tuồng nói riêng là đội ngũ kế cận và khán giả. Rất nhiều năm khoa Sân khấu của đại học sân khấu-Điện ảnh Hà Nội không có thí sinh thi tuyển diễn viên tuồng. Các nhà hát tuồng trên cả nước cũng gặp khó khăn trong tuyển diễn viên mới vì những người trẻ có năng khiếu không muốn theo nghề “hèn về tiếng, lép về tiền”. Thực tế đã có khoảng trống lớn về đội ngũ sáng tác, không có lớp kế cận sẽ không còn kịch bản tuồng đề tài hiện đại.
Khác với khán giả kịch nói, khán giả sân khấu tuồng phải có những kiến thức sơ đẳng mới có thể hiểu được. Nỗi lo thiếu vắng khán giả đã được báo động từ hơn 20 năm nay. Vì không được xem thường xuyên và cũng không được dạy về môn nghệ thuật này trong trường học nên hầu hết lớp trẻ hiện nay không có khái niệm về tuồng. Thậm chí khi nói đến tuồng có thanh niên còn không biết là gì.
Hàng ngày, chúng ta vẫn luôn nghe, đọc các cụm từ “phải bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống”, “văn hóa là nền tảng của sự phát triển” hay “giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc”.
Thế nhưng kinh phí chi cho bảo tồn, duy trì và phổ biến lại quá ít ỏi. Sáng tác một kịch bản tuồng vô cùng nhọc nhằn, ngoài lời thoại còn có lời hát thế nhưng nhuận bút quá thấp. NSND Hương Thơm, Phó Giám đốc nhà hát Tuồng Việt Nam cho biết, hằng năm Nhà nước chỉ cấp kinh phí cho 10 đêm diễn miễn phí nên Nhà hát buộc phải tiết kiệm chi tiêu để có tiền đi diễn miễn phí cho học sinh từ THCS trở lên.
Theo NSND Tiến Thọ, Nhà nước phải có kênh truyền hình để quảng bá và giới thiệu nghệ thuật truyền thống. Và muốn bảo vệ tài sản quốc gia thì Nhà nước phải đầu tư nhiều hơn.
Phải có luật Bảo vệ văn hóa truyền thống vì khi có luật thì chính quyền các địa phương mới có trách nhiệm. Còn cứ như hiện nay thì tương lai nghệ thuật tuồng rất mờ mịt.
Nguyễn Ngọc Tiến