Người tử tù “độc nhất vô nhị” này tên là Đặng Văn Thế, sinh năm 1975, quê xã Minh Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, rồi chuyển về sinh sống ở huyện Con Cuông, Nghệ An.
Gia đình Thế có “tiền sử” khá đậm liên quan đến ma túy. Nhà có bốn anh em trai thì cả bốn người đều dính vào ma túy. Người anh cả của Thế chết vì nghiện hút, hai anh trai khác chịu án chung thân vì buôn bán thuốc phiện, còn Thế tháng 8/1997 (trong thời gian làm phụ xe) đã bị công an bắt quả tang cùng đồng bọn vận chuyển 20kg thuốc phiện, lúc đó Thế vừa mới cưới vợ được hơn một tháng.
Năm 1998, Đặng Văn Thế và người bạn đồng vụ là Nguyễn Tất Dũng bị TAND tỉnh Nghệ An (xử sơ thẩm) và TAND Tối cao (xử phúc thẩm) tuyên phạt án tử hình về tội vận chuyển trái phép ma túy. Sau đó một thời gian ngắn, Dũng bị thi hành án tử hình, còn Thế do làm đơn xin khai báo thêm tội lỗi của mình và đồng bọn với cơ quan công an nên được tạm hoãn thi hành án để điều tra mở rộng.
Sau đó, Thế khai nhận: Từ tháng 3/1996 đến tháng 7/1997, Thế đã tham gia "mua bán vận chuyển trái phép thuốc phiện, heroin" trong nhiều đường dây, có nhiều người tham gia với số lượng khá lớn. Thấy lời khai của tử tù Thế có đủ cơ sở và để có điều kiện xác minh lời khai, mở rộng vụ án thu thập tài liệu và nhân chứng khi phá chuyên án đường dây ma túy lớn này, cơ quan CSĐT công an tỉnh Nghệ An đề nghị TAND Tối cao, VKSND Tối cao tiếp tục cho phép tạm hoãn thi hành án tử hình đối với Đặng Văn Thế trong thời gian điều tra.
Do vậy, hết ngày dài tới đêm thâu, tử tù Thế mỏi mòn sống trong biệt giam dành cho án tử hình mà không biết chính xác ngày nào mình phải ra trường bắn. Để giết thời gian, ngồi trong tù chẳng biết làm gì hơn, tử tù Thế ngày ngày dành cơm nuôi mèo, nuôi chim và tập làm thơ. Mỗi lần nghĩ được một câu thơ, anh ta lại xin cán bộ giấy, bút để viết lại.
Trong 12 năm nằm biệt giam tử hình, Thế đã sáng tác mấy chục bài thơ đủ để in một tập thơ với nhiều cảm xúc xót xa, trăn trối, ân hận:
Khi tôi chết không người thân đưa tiễn
Không bạn đời cũng chẳng có mẹ cha
Cánh rừng kia là nơi tôi an nghỉ
Không bóng người cũng chẳng tiếng tàu xe…
Tử tù Đặng Văn Thế ngày mới bị bắt.
Tài sản duy nhất của tử tù: chiếc cùm sắt
Dưới đây là một số trích đoạn trong tự truyện “Lời sám hối của một tử tù” do Đặng Văn Thế ghi lại như một thứ nhật ký trong 4.400 đêm sống chập chờn trong tuyệt vọng và hy vọng.
“Tôi là Đặng Văn Thế, sinh ngày 20/07/1975. Năm mà trước ngày tôi chào đời hai tháng, quân và dân ta đã thẳng tiến về Dinh Độc Lập để bắt sống Dương Văn Minh để hai miền Nam - Bắc được thống nhất thành một dải. Sinh tôi ra đúng vào tháng 5 lịch sử đó, bố mẹ tôi nghĩ rằng tôi sẽ làm được một việc gì đó, có ích cho gia đình xã hội.
Nhưng thật là đắng cay và đau xót, vì chẳng những tôi không làm được việc gì có ích cho xã hội mà tôi lại là kẻ tội đồ của gia đình và xã hội – khi tôi đang tâm gieo rắc cái chết trắng cho mọi người. Sự việc bắt đầu từ ngày 15/08/1997, sau khi cưới vợ được 40 ngày, tôi đã theo một người đi vận chuyển ma tuý.
Sau ba chuyến trót lọt lời được 18 triệu đồng tôi cứ tưởng mình sẽ nhanh chóng làm giàu nhờ gieo cái chết trắng. Nhưng sự đời có ai học được chữ ngờ, và tôi không tránh khỏi lưới trời lồng lộng. Ngày 15/08/1997 trên đường vận chuyển 20kg thuốc phiện đi tiêu thụ. Chúng tôi đã bị bắt quả tang.
Trước cơ quan điều tra dù đã đủ bằng chứng buộc tội nhưng tôi vẫn cố biện minh cho tội lỗi của mình. Nhưng cổ nhân đã nói; gieo gió thì ắt gặp bão, và đến ngày 23/06/1998 tôi đã bị TAND tỉnh Nghệ An tuyên phạt Tử hình! Bản án thích đáng dành cho những kẻ hám lời mà gieo rắc bất hạnh cho nhân loại”.
Sau khi bị tuyên án, Thế được áp giải về phòng biệt giam của trại tạm giam công an tỉnh Nghệ An. Trước khi bị áp giải ra xe thùng, anh còn cố quay đầu lại đưa cặp mắt đầy tuyệt vọng tìm kiếm người thân và gia đình của mình. Và thật đau đớn, xót xa khi Thế đã kịp chứng kiến một hình ảnh mà cho đến giờ anh ta vẫn không sao quên được, đó là mẹ già 70 tuổi và người vợ trẻ đã bất tỉnh nhân sự khi toà tuyên án.
Tại phòng biệt giam trước khi Thế được dẫn giải về, đã có hai phạm nhân chuẩn bị “chỗ ăn, chỗ nằm” cho anh ta. Một cán bộ quản giáo đã nói đùa với Thế rằng, căn phòng này là chỗ “tạm trú dài hạn” cho anh. Khác với phòng dành cho thường án, phòng dành cho tử tù có diện tích rất nhỏ, chỉ khoảng 2m2, trong đó gồm chỗ nằm, “xa lộ”, bồn vệ sinh, bể nước sinh hoạt. Tài sản duy nhất và có giá trị nhất là “chiếc cùm sắt” dùng để cùm chân tử tù.
Thế vẫn nhớ hàng xóm của anh ta lúc đó có 5 người, tất cả đều phạm tội gieo rắc cái chết trắng. Căn nhà họ ở được gọi là “chung cư hộp diêm”, những hàng xóm của Thế sau khi hết “hạn tạm trú” đã phải ra pháp trường đền tội cho pháp luật. Cán bộ quản giáo lúc đó là ông Nguyễn Văn Mùi, người đã có lần bế thốc Thế chạy ba chân bốn cẳng lên trạm xá trại để cấp cứu. Ở khu hộp diêm 3 tháng, Thế được Ban Giám thị cho chuyển đến nhà giam B2.
Người quản giáo ở đây là ông Lê Văn Tài, hằng ngày Thế được cán bộ mở cùm 15 phút để tập thể dục và vệ sinh cá nhân. Thời gian còn lại Thế luôn phải ở trong cùm nằm nghe đài và sám hối lương tâm, hôm nào rảnh thì ông Tài vào chơi cờ tướng và đánh bài với Thế, còn Ban Giám thị thì hằng tuần thay nhau vào động viên thăm hỏi anh, đặc biệt là ông Hoàng Tuấn Tú giám thị trưởng.
Tử tù Thế viết trong tự truyện: “Biết được tôi sống nặng nề về tình cảm, nên ông Tú thường xuyên vào trò chuyện với tôi rất chân tình. Đối với kẻ lầm đường lạc lối như tôi, ông chẳng khác nào một người cha, ông ấy là chỗ dựa tinh thần rất lớn để tôi chia sẻ mọi vui buồn trong những ngày tháng nằm chờ quyết định cuối cùng của Chủ tịch nước. Ông là một giám thị trưởng nhưng không hề phân biệt đối xử hay kỳ thị với tôi.
Quả thật thời gian đầu tôi đã không tin tình cảm của ông ấy dành cho tôi là sự thật. Vì tôi là kẻ có tội lớn với pháp luật, giống nòi nhưng cùng với thời gian, tình cảm mà ông và cán bộ ở đó dành cho tôi là có thật. Một thứ tình cảm rất nhân văn và rất con người! Ông thường bảo với tôi rằng: Anh có tội với pháp luật thì phải chịu tội, chúng tôi chỉ là những người canh “kho” cho pháp luật mà thôi, chúng tôi xem các anh như những “đứa con” lạc lối, giúp cho các anh được cái gì mà lương tâm cho phép, lại không vi phạm pháp luật thì chúng tôi sẽ làm.
Từ những tình cảm ân tình đó mà tôi đã dần thay đổi cách nghĩ và cách nhìn đối với họ. Tôi đã dành cho ông sự kính trọng và hàm ơn rất lớn. Tôi còn nhớ vào một chiều thu trời mưa rất lớn vì nhớ bố mẹ già ở quê, nhớ người vợ trẻ vừa mới cưới được 40 ngày nên tôi đã gào thét và khóc lóc.
Sau khi nhận được tin của quản giáo, ông đã đội mưa vào buồng giam để động viên tôi. Ông bảo nếu thương bố mẹ thì hãy chấp hành thật tốt để mong sự khai ân của Chủ tịch nước, anh mới có ngày được tạ tội với mẹ cha và gia đình. Từ câu nói hết sức chân tình và đầy lòng nhân ái đó, mà tôi kìm nén được nỗi đau và sự bi quan của mình, và đêm đó tôi đã làm một bài thơ tự sự rằng:
Chiều thu Ban Tú vào thăm Thế
Ban bảo mai này chắc được tha
Đừng có bi quan mà làm bậy
Kẻo rồi ân hận đấy “con à”.
Sau buổi chiều thu đó, cho đến trước ngày 15/07/2000, tôi luôn “vui vẻ” giữa xà lim để chờ quyết định cuối cùng của pháp luật. Tôi đã tự nhủ với lòng mình là sẽ không làm phiền ông thêm một lần nào nữa. Nhưng rất tiếc tôi đã không làm được điều ấy, bởi một sự việc quá bất ngờ đã đến với tôi.
Thật tình mà nói, tôi biết sớm muộn gì thì việc đó cũng đến với tôi, đến với một kẻ trọng tội nhưng tôi không nghĩ lại đến sớm như vậy. Vì thời điểm đó tôi vẫn chưa có quyết định cuối cùng của Chủ tịch nước”.
Tử tù Đặng Văn Thế ngồi viết tự truyện.
Bản án “tử hình” thứ hai dành cho con tim
Đó là vào ngày 15/07/2000, ngày mà chắc chắn suốt đời này Thế sẽ không bao giờ quên được. Vì ngày hôm đó được xem như ngày anh ta phải nhận thêm một bản án tử hình khác – án tử hình dành cho con tim. Sáng hôm đó trời mưa rất lớn, cơn mưa như trút nước từ đâu đổ về làm tràn ngập cả con đường từ nhà giam ra phòng tiếp dân của trại, cho dù hôm đó đang là mùa hè.
Sau khi tạnh mưa, Thế được cán bộ quản giáo thông báo ra gặp gia đình. Mặc bộ quần áo được vợ may cho ngày cưới, khấp khởi vui mừng đi theo cán bộ trực trại. Trên đường đi tâm trạng Thế lại càng vui hơn khi được cán bộ cho biết là được gặp vợ. Khuôn mặt anh lúc đó rạng ngời chẳng khác gì “cây khô gặp nước”. Thế được cán bộ dẫn vào phòng số 2 mà vợ anh đã đứng ở đó chờ từ trước.
Có một điều trùng hợp là hôm đó vợ Thế cũng mặc bộ đồ mà chính anh đã may cho cô ấy hôm cưới. Sau khi hỏi thăm sức khoẻ và tình hình của chồng, trên đôi gò má cô ấy có dòng lệ bắt đầu tuôn trào, thú thực lúc ấy Thế nghĩ cô ấy khóc vì thương anh, vì lo cho cuộc sống của anh đang phải đếm từng ngày.
Nhưng thật là cay đắng cho Thế, vì những giọt nước mắt đó là “khúc dạo đầu” cho “Bản án tử hình” mà cô ấy đã tuyên cho Thế. Những gì tiếp theo sau đó chắc bạn đọc cũng đã hiểu. Sau vài phút choáng váng Thế đã trấn tĩnh lại để ký vào “Bản án tử hình” là đơn xin ly hôn mà cô ấy dành cho anh.
Trên đường từ nhà thăm gặp trở về, tâm trạng Thế thật là nặng nề, xách túi quà trên tay, anh có cảm giác như mình đang xách một thứ gì đó rất nặng. Hôm đó khác với những lần gặp trước, Thế không mở túi quà ra để chia cho các tử tội khác mà chỉ mời họ một điếu thuốc rồi vào xiềng nằm.
Trong Thế luôn có cảm giác thật khó tả, anh vui vì đã mang đến tự do cho vợ, và cũng rất buồn vì đã đánh mất đi chỗ dựa và nguồn động viên lớn lao của mình. Tối hôm đó, Thế nghĩ đến cảm giác cô đơn gặm nhấm tâm hồn trong những ngày còn lại của kẻ tử tội, nên anh đã ném tung gói quà mà vợ gửi, và đã viết mấy câu thơ về cô ấy rằng:
Em ra đi khi bình minh tắt nắng
Bỏ lại tôi một bóng tối hoàng hôn
Lệ tuôn rơi nhưng sao không khóc nổi
Bởi giờ đây em là vợ người ta
Em đã quay lưng từ hôm đó
Mười năm tháng bảy năm hai ngàn
Bỏ tôi tiếp tục nai lưng gánh
Nỗi khổ tội tình thật đắng cay
Đêm hôm đó, Thế như một kẻ điên loạn, tôi hét tên cô ấy rất to trong đêm khuya thanh vắng, dĩ nhiên chuyện đó đã đến tai ông giám thì trưởng. Sáng hôm sau khi cửa buồng giam vừa bật mở, Thế đã thấy ông ấy đứng đó tự lúc nào. Với khuôn mặt phúc hậu và nụ cười hiền từ, ông ấy đã hỏi thăm về việc anh ra gặp vợ sáng hôm qua.
Sau khi nghe Thế thuật lại những gì xảy ra với mình, ông ấy đã ôn tồn nói với anh đại ý là: “Ở vào lứa tuổi của anh, lại đang ở vào hoàn cảnh này, sự “ra đi” của cô ấy thì điều đau khổ trong anh là không thể tránh khỏi. Nhưng anh không nên vì thế mà đánh mất niềm tin, cô ấy đã không còn nghĩ đến mình, thì mình cũng không nên đau khổ vì cô ấy. Hơn nữa sự giải phóng cho cô ấy làm cho anh thanh thản hơn, “đàn ông” hơn. Đừng tiếc nuối những gì không phải là của mình, anh phải nhớ rằng còn anh sẽ là còn tất cả, Ban chỉ nói vậy mong anh hiểu”.
Sau sự việc đó, Thế thấy mình đã “lớn lên” rất nhiều, anh đã suy nghĩ chín chắn hơn. Hành động đầu tiên mà Thế làm là đã viết hai lá đơn bỏ sẵn vào trong gối, một là lá đơn tố giác tội phạm, hai là lá đơn xin tự nguyện hiến xác cho khoa học. Ý định của Thế là viết sẵn đơn, nếu bị Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm án tử hình thì lúc ra làm thủ tục, Thế xin gửi cơ quan điều tra đơn tố giác tội phạm để lập công chuộc tội.
Nếu không được chấp thuận thì anh sẽ nộp lá đơn hiến xác cho Hội đồng thi hành án, để mong làm được một việc gì đó có ích trước lúc đền tội. Nhưng Thế chưa có cơ hội làm việc đó thì vào một buổi chiều hạ tuần tháng 7, ông Lê Văn Tài là cán bộ quản giáo đã vô tình phát hiện thấy lá đơn của Thế và mang nộp cho Ban giám thị.
Sáng hôm sau, Thế được Ban Tú gọi ra để gặp, sau khi bước vào phòng làm việc, anh được ông mời một chén trà và một điếu thuốc lá Vina, rồi ông hỏi: Ai đã bày cho anh viết lá đơn này?”. Thú thật là trong đầu Thế lúc đó thoáng nghĩ mình sẽ bị kỷ luật bởi viết đơn khi chưa được phép. Sau khi nghe Thế trình bày lý do xong, ông đứng dậy xoa vào đầu tôi và bảo: “Lương tâm anh đã thật sự sám hối. Bây giờ tôi sẽ gửi lá đơn này cho cơ quan điều tra, còn lá đơn hiến xác này, tôi sẽ tạm giữ lại và hy vọng là anh sẽ không cần đến nó”.
Thời gian sau đó, Thế liên tục được cơ quan điều tra gọi đi hỏi cung, trước cơ quan điều tra anh đã không giấu giếm điều gì về hành vi phạm tội của mình. Thế đã khai báo thành khẩn hết những gì mình làm, mình biết cho cơ quan điều tra. Và một ánh sáng “le lói cuối đường hầm” đã đến với Thế, đó là vào một ngày thu nắng đẹp, anh được đọc tờ công văn hoãn thi hành án tử hình do cơ quan điều tra soạn thảo.
Và một sự kiện lớn cũng làm cho Thế cảm thấy hy vọng hơn là văn bản hướng dẫn Luật Hình sự sửa đổi bổ sung năm 1999 được đưa lên thông tin đại chúng. Nhưng niềm vui lớn ấy chẳng tày gang, sau khi luật mới được ban hành, phần lớn tử tù được Chủ tịch Trần Đức Lương tha tội chết, duy chỉ còn mình Thế là “án binh” bất động. Lúc đó dù niềm tin vẫn đang giữ nguyên nhưng Thế cảm thấy rất buồn và rồi nỗi buồn cũng chuyển sang thất vọng khi một năm, hai năm, rồi ba năm vẫn không thấy chim én mang “mùa xuân” đến với mình trong khi một số tử tù khác đã được Chủ tịch nước khai ân.
Thường thì “cuộc đời” của một tử tù chỉ bằng tuổi thọ của một chú bạch tuộc thiên tài ở Viện Hải dương học của Đức. Nhưng Thế đã “trường thọ” đến gấp ba lần mà vẫn chưa cảm nhận được “hơi ấm của mùa xuân”.
Sau nỗi đau “mất vợ” là nỗi lo “mất mạng”
Cho đến cuối năm 2003 và năm 2004, Thế bắt đầu cảm thấy lo lắng cho bản án của mình. Anh đã không còn dám ngủ vào ban đêm nữa, ngoại trừ thứ bảy và chủ nhật là chợp mắt vào ban đêm, còn lại các ngày khác vào trong tuần thì tuyệt nhiên không dám ngủ. Giấc ngủ chỉ đến với Thế khi tiếng gà gáy sáng của mấy nhà dân gần trại cất lên. Chuyện không dám ngủ vào ban đêm chẳng phải riêng gì anh ta mà đối với tất cả tử tù đều vậy.
“Khi đã hết hạn “tạm trú” rồi thì tuyệt nhiên không còn một tử tù nào dám ngủ vào ban đêm nữa. Không biết có phải thức để xua đuổi thần chết hay không? Nhưng đêm nào cũng thức thâu đêm. Việc thức đêm với thời gian dài đã làm cho đôi tai của tôi thính hơn thì phải? Giữa đêm khuya thanh vắng bất cứ một âm thanh gì tôi cũng nghe được. Âm thanh tôi sợ nhất là tiếng gót giày của cán bộ. Đêm nào có tiếng hai đôi giày trở lên tiến vào phòng là tôi cảm thấy vô cùng hoảng sợ.
Tôi còn nhớ vào một đêm mưa, tôi đang nằm nghe tiếng rả rích của những chú côn trùng thì bỗng có ba bốn tiếng gót giày tiến đến phòng tôi. Đang nằm, tôi đã bật dậy như một chiếc lò xo và nín thở lắng nghe tình hình. Bỗng có tiếng chìa khoá kêu leng keng và cánh cửa sắt phía ngoài phòng giam tôi bật mở. Lúc đó tôi thoáng nghĩ “thời khắc” của tôi đã điểm, tôi chưa kịp nói câu gì thì cán bộ Sang ngó đầu vào hỏi, trời mưa có ngủ được không Thế? Buồng giam có bị dột không? Nếu dột thì lấy áo mưa của cán bộ trải lên màn cho đỡ ướt, tranh thủ ngủ đi một lúc, trời sắp sáng rồi.
Với tay cầm tấm ni lon từ tay cán bộ Sang nói lời cảm ơn, bỗng đôi mắt thâm quầng của tôi trào dâng hai hàng nước mắt. Tôi khóc không phải vì tôi chưa phải đền tội, mà khóc vì quá xúc động bởi tình cảm và sự quan tâm mà cán bộ đã dành cho tôi. Đêm hôm đó, có lẽ là lần đầu tiên tôi khóc nhiều nhất từ ngày tôi bị tuyên án tử hình”.
Duy Việt (ghi lại)
(Kỳ sau: Mùa trầm cảm của kẻ chờ chết quá lâu)