> Hãy cùng chung tay hành động vì một Việt Nam xanh
Lợi gì từ đào bới tài nguyên
Mới đây, Bộ Công Thương đã cấp hàng chục giấy phép xuất khẩu cho các doanh nghiệp khai khoáng ở 13 địa phương dưới hình thức xuất khẩu hàng tồn kho nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Số giấy phép được cấp chỉ bằng phân nửa số đơn và lượng khoáng sản xin cấp phép. Các giấy phép dù lý do thế nào thực chất cũng là hợp thức hóa việc xuất khẩu khoáng sản thô và không khác nào vô hiệu hóa Chỉ thị 02 (tháng 1/2012) của Chính phủ về tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến và xuất khẩu khoáng sản. Chỉ thị này quy định “dừng hoàn toàn việc xuất khẩu dưới mọi hình thức” nhiều loại khoáng sản như quặng và tinh quặng sắt, quặng mangan, crom…
Chỉ thị cấm xuất khẩu khoáng sản thô đã được đặt ra từ nhiều năm nay và ngày càng có nhiều quy định siết chặt hơn, nhưng cũng nhiều lần bị dỡ bỏ, nên doanh nghiệp khai khoáng vẫn xin cấp phép.
Ví dụ như chỉ cho phép xuất khẩu quặng ilmenit (từ khai thác titan) đang tồn kho đến hết tháng 6/2012 và được thông báo trước đó cả năm trời, vậy mà mới đây Chính phủ lại cho phép xuất khẩu tiếp.
Hoặc nhiều chỉ thị cấm xuất khẩu quặng sắt, chỉ cho phép xuất để đổi than cốc, nhưng hầu hết các giấy phép xuất khẩu loại này không nhằm đổi than cốc, mà nhằm giải phóng hàng tồn kho.
Lợi nhuận, đó là lý do vì sao trên cả nước (trừ Bạc Liêu không cấp giấy phép khai khoáng nào), các doanh nghiệp thi nhau đào bới tài nguyên. Ngoại trừ nguồn thu từ dầu khí nộp vào ngân sách nhiều nhất, còn các loại tài nguyên khác thu về cho ngân sách nhà nước không bằng phần chảy vào túi một vài nhóm lợi ích.
Theo thống kê của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong báo cáo giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật về quản lý, khai thác khoáng sản (năm 2012), những năm qua, ngành này đóng góp đến 10-11% GDP (tính luôn cả dầu, khí). Tuy nhiên, ông Nguyễn Thành Sơn, Giám đốc Công ty Năng lượng sông Hồng từng nhiều lần lên tiếng cảnh báo rằng tài nguyên khoáng sản đang làm “vật tế thần” cho tăng trưởng nóng. Nguồn thu dễ nhất đồng thời cũng kém bền vững nhất chính là khai khoáng và xuất khẩu khoáng sản.
Cái bẫy ở tương lai
“Căn bệnh Hà Lan” đang hiện diện ở Việt Nam, ông Sơn khẳng định. Và so sánh hai mô hình phát triển khác nhau của tỉnh Quảng Ninh (dựa vào tài nguyên khoáng sản) với tỉnh Vĩnh Phúc (hầu như không có tài nguyên khoáng sản) ông thấy sự bền vững của tăng trưởng và chất lượng môi trường hai tỉnh rất khác nhau. Quảng Ninh đứng thứ năm về tổng thu ngân sách theo con số tuyệt đối. Song, nếu so sánh mức thu ngân sách trên tổng mức đầu tư của xã hội, Vĩnh Phúc lại bỏ xa Quảng Ninh.
Số doanh nghiệp tham gia hoạt động khai khoáng đã tăng liên tục, từ 427 doanh nghiệp vào năm 2000 lên gần 2.000 doanh nghiệp vào năm 2011, theo con số của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Và kèm theo đó là hơn 4.200 giấy phép khai khoáng các loại được cấp ở 62 tỉnh, thành. Những con số này cho thấy sự phát triển chóng mặt của ngành công nghiệp khai khoáng, và hậu quả tất yếu là mức tổn thất về tài nguyên và sự tàn phá môi trường cũng không hề nhỏ.
Với sự phát triển như vậy về số lượng, lẽ ra ngành khai khoáng phải đóng góp lớn cho ngân sách. Nhưng thực tế năm 2008, ngành khai khoáng đứng thứ năm về đầu tư mà hiệu quả đóng góp vào tăng trưởng GDP chỉ đứng thứ tám, chưa kể có xu hướng giảm dần theo các năm.
Nguyên nhân là do Việt Nam chủ yếu bán tài nguyên thô, còn chế biến sâu rất ít. Trong khi đó, các doanh nghiệp vẫn phải nhập các loại khoáng sản chế biến sâu – cũng là nguyên liệu đầu vào cho các ngành sản xuất công nghiệp quan trọng.
Chẳng hạn dầu thô là loại khoáng sản mang lại giá trị xuất khẩu lớn nhất nhưng cũng chỉ đủ để nhập khẩu lại xăng dầu các loại cho tiêu dùng trong nước. Hoặc theo tính toán của ông Sơn, ví dụ như năm 2012, tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản (TKV) xuất được 13,5 triệu tấn than, tạo ra chênh lệch doanh thu với giá bán trong nước khoảng 9.600 tỉ đồng.
Song do Nhà nước không quản được xuất khẩu lậu, ước tính 5-6 triệu tấn/năm, trị giá hơn 10.000 tỉ đồng (tạm tính theo giá bình quân năm 2012) đã coi như mất trắng. Như vậy, giá trị xuất lậu còn lớn hơn chênh lệch xuất khẩu của TKV. Nên nếu không quản được xuất khẩu thì giá trị tạo ra là quá ít so với giá trị mất đi.
Mới có biểu hiện nhiễm bệnh Không thể phủ nhận vai trò ban đầu của ngành khai khoáng đối với tăng trưởng kinh tế, cụ thể là vai trò của ngành dầu khí và ngành than khi nội lực của Việt Nam cách đây vài chục năm còn rất yếu. Ở giai đoạn đó việc phải chấp nhận bán một phần nguồn lực khoáng sản để tạo đà cho sự phát triển là cần thiết. Nhưng càng về sau, tư duy về vấn đề quản lý sử dụng tài nguyên phải thay đổi. Việt Nam đã bước vào ngưỡng quốc gia có thu nhập trung bình, nếu cứ sa đà vào khai thác tài nguyên để phát triển thì “sập bẫy” thu nhập trung bình thấp. Chính phủ đã nhận ra điều đó qua nhiều chính sách, nghị quyết ở tầm vĩ mô. Nhưng từ văn bản đến thực tế lại có khoảng cách.Các quốc gia phụ thuộc quá nhiều vào khai khoáng, xao nhãng các ngành khác có thể kéo theo sự trì trệ trong phát triển kinh tế. Ở Việt Nam, thực ra ngành khai khoáng (cả dầu thô) chỉ đóng góp 10-11% vào tăng trưởng GDP, do đó chúng ta không rơi vào “căn bệnh Hà Lan” nhưng biểu hiện nhiễm bệnh thì có. Ở cấp quốc gia thì nhẹ nhưng ở một số địa phương thì nặng, nhất là các địa phương mà cơ cấu thu chi ngân sách phụ thuộc vào khai khoáng như Quảng Ninh. Tỉnh đó sẽ như thế nào nếu ngành than chững lại? Nếu không tỉnh táo xoay chuyển nhanh cơ cấu kinh tế vào các ngành dịch vụ, thương mại thì những năm tới sẽ không sống dựa vào tài nguyên mãi được. Hay như Đăk Nông đã từng rất kỳ vọng vào ngành công nghiệp bauxite, vì thế đã định hướng xây dựng thị xã Gia Nghĩa thành thành phố công nghiệp – dịch vụ và đã mời đối tác Hàn Quốc lập quy hoạch phát triển Gia Nghĩa đến năm 2030, tầm nhìn 2050 theo hướng đó. Nhưng với những khó khăn hiện nay của các dự án bauxite, sự kỳ vọng đó cũng đã thay đổi nhiều, quy hoạch xây dựng Gia Nghĩa thành thành phố công nghiệp với trọng tâm là công nghiệp bauxite – nhôm sẽ là điều không dễ thực hiện. Phạm Quang Tú, phó viện trưởng Viện Tư vấn phát triển (CODE) |