Hội thảo chia sẻ kết quả Báo cáo Rà soát Đầu tư và Chi tiêu công cho Biến đổi Khí hậu ở Việt Nam (CPEIR) vừa được Bộ kế hoạch và Đầu tư phối hợp với UNDP tổ chức tại Hà Nội.
Theo báo cáo, Việt Nam đã phân bổ ngày càng nhiều nguồn lực tài chính cho ứng phó với BĐKH. Tổng chi ngân sách của 6 bộ và 29 tỉnh, thành phố tham gia rà soát là gần 6,5 tỷ USD, tương đương 1,3 tỷ USD/năm trong giai đoạn 2016-2020.
CPEIR đánh giá chi ngân sách nhà nước cho BĐKH của 6 Bộ, gồm Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng, và Bộ Khoa học và Công nghệ, 28 tỉnh và một thành phố trực thuộc trung ương là Cần Thơ.
Báo cáo bao gồm chi đầu tư và chi thường xuyên ngân sách nhà nước, trong đó có hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), giai đoạn 2016 - 2020, và một số dữ liệu về chi ngân sách nhà nước giai đoạn 2011 - 2015 của 5 Bộ và 3 tỉnh.
Dữ liệu phân tích cho thấy, hơn 70% ngân sách khí hậu của các Bộ và hơn 90% ngân sách khí hậu của các tỉnh và thành phố được khảo sát là dành cho chi tiêu thích ứng BĐKH, phù hợp với các ưu tiên chính sách của Chính phủ về chi tiêu công trong giai đoạn 2016 - 2020. Trong khi đó, chi cho các hoạt động giảm nhẹ chủ yếu đến từ khu vực tư nhân.
Ngân sách cho BĐKH của 6 Bộ trong giai đoạn 2016 - 2020 ổn định, chiếm khoảng 26-38% tổng thu ngân sách của các Bộ.
Đáng chú ý, theo báo cáo, Bộ NN&PTNT và Bộ GTVT chiếm 80% tổng ngân sách cho BĐKH, với mức tổng chi hơn 8.000 tỷ đồng mỗi năm trong giai đoạn 2016-2020, tập trung vào thủy lợi và giao thông.
Ngân sách cho BĐKH của 29 tỉnh/thành phố tăng từ khoảng 15.000 tỷ đồng năm 2016 lên gần 24.000 tỷ đồng vào năm 2020, báo cáo cho biết. Phân bổ ngân sách từ nguồn trong nước ổn định nhưng nguồn vốn ODA có xu hướng tăng. Ngân sách cho BĐKH chiếm tỉ trọng tương đối ổn định trong tổng ngân sách cấp tỉnh, dao động trong khoảng 16-21% tổng ngân sách.
Chi tiêu cho khí hậu của các tỉnh tập trung vào các can thiệp cụ thể, chẳng hạn như an ninh lương thực và nước, các hành động ứng phó với nước biển dâng và phát triển rừng.
Báo cáo cũng đánh giá mối liên hệ giữa ngân sách đầu tư liên quan đến khí hậu và các chính sách chính liên quan đến BĐKH, cụ thể là Chiến lược quốc gia về BĐKH 2011-2020 (NCCS), Chiến lược tăng trưởng xanh 2012-2020 (GGS) và Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris (PIPA), cũng như các kế hoạch hành động cấp tỉnh liên quan.
Các Bộ và các tỉnh/thành phố có thể sử dụng báo cáo này như một công cụ để đánh giá chi thường xuyên và cơ sở đầu tư cho chống BĐKH và các ưu tiên tăng trưởng xanh nhằm cải thiện chính sách và phân bổ cho BĐKH.
Báo cáo cũng đưa ra một số khuyến nghị, ví dụ chiến lược quốc gia về BĐKH và chiến lược tăng trưởng xanh và các kế hoạch hành động cần được phản ánh nhiều hơn trong các mục tiêu và chỉ tiêu của nhiều chính sách ngành và trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tổng thể.
Phát biểu khai mạc, bà Nguyễn Thị Bích Ngọc, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhấn mạnh kết quả của báo cáo này sẽ rất hữu ích trong việc tăng cường khả năng ứng phó với BĐKH của hệ thống quản lý tài chính công, thúc đẩy quá trình chuyển đổi từ ngân sách dựa trên đầu vào sang ngân sách dựa trên đầu ra, và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các hoạt động can thiệp liên quan đến khí hậu của các bộ và các địa phương.
“Điều này góp phần thực hiện thành công các cam kết quốc tế của Việt Nam về ứng phó với BĐKH, cũng như xác định nhu cầu đầu tư cho BĐKH, nâng cao hiệu quả, tạo cơ sở để huy động và đa dạng hóa các nguồn lực trong nước và quốc tế cho BĐKH”, bà Ngọc cho biết.
Đại diện thường trú của UNDP tại Việt Nam, bà Caitlin Wiesen, cho biết kết quả phân tích của CPEIR có thể được sử dụng để cung cấp thông tin cho việc xây dựng và điều chỉnh chính sách nhằm huy động tài chính từ các nguồn khác nhau và thúc đẩy các can thiệp liên quan đến khí hậu.
“Chúng tôi đánh giá cao rằng Việt Nam đã và đang tiếp tục tăng ngân sách cho thích ứng và giảm thiểu BĐKH. Tuy nhiên, ngân sách thích ứng với BĐKH vẫn chưa đủ để giải quyết các nhu cầu và rủi ro khí hậu của Việt Nam. Cần có những nỗ lực và hỗ trợ nhiều hơn nữa để tăng quy mô đầu tư cho thích ứng, đặc biệt là từ các nguồn quốc tế và khu vực tư nhân", bà Wiesen cho biết.
Việt Nam đã và đang phải chịu những tác động nghiêm trọng của biến đổi khí hậu (BĐKH) và các thảm họa thiên tai do khí hậu gây ra, điều này yêu cầu quốc gia cần phải thực hiện các hành động cấp bách để duy trì các thành tựu phát triển mà Việt Nam đã nỗ lực đạt được, phục hồi tốt hơn sau tác động của Covid-19 và đạt mức thu nhập trung bình cao bền vững và không để ai bị bỏ lại phía sau.
Minh Đức