Cụ thể, Đại học Tôn Đức Thắng là trường được xếp hạng cao nhất trong số 6 trường của Việt Nam, hạng 86, tổng điểm 47. Trong đó, trích dẫn là tiêu chí được giá cao nhất với 99,2 điểm.
Đại học Duy Tân với thứ hạng 106, tổng điểm đánh giá 45,3. Dù tổng điểm của Đại học Duy Tân Thấp hơn, tiêu chí về trích dẫn của trường lại được THE đánh giá cao hơn Đại học Tôn Đức Thắng và đạt điểm tối đa.
Tiếp đó các trường của Việt Nam được xếp hạng lần lượt là Đại học Quốc gia Hà Nội (hạng 351-400), Đại học Bách khoa Hà Nội (hạng 501-600), Đại học Quốc gia Tp.HCM (hạng 501-600) và Đại học Huế (hạng 601+).
So với xếp hạng đại học châu Á năm 2022 của THE, vị trí của các trường đại học Việt Nam có sự thay đổi khá rõ rệt. Cụ thể, so với năm 2022, Đại học Tôn Đức Thắng tụt 13 bậc, Đại học Duy Tân cũng tụt 15 bậc.
Thứ hạng của Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội cũng giảm so với năm trước. Ngoài ra, Đại học Đà Nẵng từng xuất hiện trong bảng xếp hạng năm 2022 và hiện đã bị thay thế bằng Đại học Huế.
Năm nay, bảng xếp hạng đại học châu Á của THE năm nay có sự góp mặt của 699 trường đại học đến từ 31 quốc gia, vùng lãnh thổ trên toàn châu Á. Trong năm thứ 4 liên tiếp, Đại học Thanh Hoa (Trung Quốc) và Đại học Bắc Kinh (Trung Quốc) nắm giữ vị trí thứ nhất và vị trí thứ 2.
Đất nước "mặt trời mọc" Nhật Bản một lần nữa là quốc gia có nhiều đại diện được xếp hạng nhất châu Á, với 117 tổ chức giáo dục đại học. Tuy nhiên, nếu so sánh thứ hạng trong top 10, Trung Quốc đại lục lại dẫn đầu với 4 trường được xếp hạng trong nhóm cao nhất.
Bên cạnh đó, Hong Kong (Trung Quốc) cũng có 3 đại diện lọt top 10. Đại diện của Hàn Quốc là Đại học Quốc gia Seoul đã rời khỏi danh sách 10 trường tốt nhất, tụt từ vị trí số 8 trong năm 2022 xuống vị trí số 11 trong năm nay.
Bảng xếp hạng đại học hàng đầu châu Á của THE đánh giá dựa trên 13 chỉ số, nhóm lại theo 5 lĩnh vực giống với xếp hạng đại học hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, các trọng số đã được điều chỉnh để phù hợp hơn với các đặc điểm của giáo dục đại học trong khu vực. Các nhóm đánh giá được THE sử dụng để xếp hạng bao gồm: Đào tạo (môi trường học tập, chiếm 25%), nghiên cứu (khối lượng, thu nhập và danh tiếng, chiếm 30%), trích dẫn (ảnh hưởng của nghiên cứu, chiếm 30%), danh tiếng quốc tế (thu hút giảng viên, sinh viên và nghiên cứu quốc tế, chiếm 7,5%), nguồn thu từ hợp tác với doanh nghiệp (hiệu quả chuyển giao tri thức, chiếm 7,5%).
Năm nay, Đại học Western Sydney của Australia tiếp tục dẫn đầu THE Impact Rankings. Đại học Manchester (Anh) đứng ở vị trí thứ 2 và Đại học Queen's (Canada) xếp vị trí thứ 3.
Tại khu vực Đông Nam Á, Thái Lan có 65 cơ sở giáo dục đại, Indonesia có 32 cơ sở, Philippines có 29 cơ sở và Malaysia có 24 cơ sở nằm trong bảng xếp hạng này.
THE Impact Rankings không phải là bảng xếp hạng về học thuật, nghiên cứu hay giảng dạy như THE World University Rankings (bảng Xếp hạng các đại học trên Thế giới của THE) hay THE Asian University Rankings (bảng Xếp hạng các đại học khu vực Châu Á của THE), mà là bảng xếp hạng lấy việc thực hiện 17 Mục tiêu phát triển bền vững (SDG) của Liên Hiệp Quốc làm tiêu chí đánh giá các tổ chức giáo dục đại học trên toàn cầu. THE Impact Rankings đánh giá tầm ảnh hưởng và sự đóng góp của các cơ sở giáo dục đối với sự phát triển xã hội, con người, và nỗ lực bảo vệ môi trường.
Trúc Chi (theo Zing, Lao Động)