Tại đây, ông đã bị gian thần vu khống, đưa ra xét xử và định án tử. Tưởng cuộc đời ông đã khép lại, nhưng với tài trí và sự quả cảm phi thường của người vợ thân thương, ông đã được miễn tội chết. Đó là một câu chuyện hết sức cảm động và đầy bi thương. Tình cờ, PVđã gặp ông Đặng Tấn Hùng, phó giám đốc sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Cần Thơ, người đã dày công nghiên cứu về cuộc đời Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa với nhiều tư liệu chưa từng được tiết lộ.
Bênh người nghèo bị gán tội "xúi dân làm loạn"
Ông Đặng Tân Hùng cho biết: Thuở nhỏ, gia cảnh Bùi Hữu Nghĩa rất khó khăn. Cha ông là Bùi Hữu Vị, làm nghề thuyền chài nên ông chỉ đi học chữ Hán được mấy năm. Bùi Hữu Nghĩa rất thông minh, chăm chỉ và sớm được đánh giá hơn người. Biết được tài trí và sự cần mẫn của ông, một nhà giàu cùng xóm mang họ Ngô đã giúp cho Bùi Hữu Nghĩa lên Biên Hòa (Đồng Nai ngày nay) theo học. Tại đây, ông theo học cùng thầy Đồ Hoành. Sau một thời gian dùi mài kinh sử, ông đi thi và đậu thủ khoa trong kỳ thi Hương ở Gia Định vào năm 1835. Từ đây, ông được gọi là thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa. Ngay sau khi đỗ thủ khoa, ông được bổ nhiệm làm quan tri huyện Phước Long, phủ Biên Hòa. Thời gian này, ông cũng chính thức kết hôn với bà Nguyễn Thị Tồn, con gái của thủ hộ Nguyễn Văn Lý, người trước đó vì mến mộ Bùi Hữu Nghĩa nên đã gả con gái của mình.
Khu di tích được xây dựng khang trang với kinh phí gần 100 tỷ đồng. (Ảnh Internet)
Vốn là người ngay thẳng, liêm khiết, nên khi Bùi Hữu Nghĩa ra làm quan chẳng được lòng mấy người. Vì thời buổi bấy giờ có nhiều quan lại kéo bè, kết cánh, đục khoét và làm khổ dân lành. Trước cảnh ấy, thêm phần ông lại có tính ngay thẳng, thanh liêm nên "không phù hợp" với chốn quan trường vốn là "sân chơi" của bọn tham quan. Đang trong thế loay hoay thì Bùi Hữu Nghĩa được triều đình "luân chuyển công tác" và bổ nhiệm ông làm Tri huyện Trà Vang (Trà Vinh ngày nay) thuộc tỉnh Vĩnh Long. Tại đây, ông đã vướng vào vòng lao lý do những quyết định đứng về phía dân nghèo của mình. Thậm chí người ta còn gán cho ông tội "xúi dân làm loạn".
Theo ông Đặng Tấn Hùng, thuở ấy, dưới quyền cai quản của Tổng đốc Trương Văn Uyển và Bố chánh Truyện, Trà Vang có nhiều bất ổn. Leo lên được quan to nhưng đầu óc lại dốt nát, tha hóa rồi kéo bè, kết cánh, nghĩ ra những chiêu trò để trục lợi và nhũng nhiễu hạ sát dân lành. Trước cảnh bức bách này, dân chúng hết sức ngột ngạt, khốn khó... Dù vậy, quan tri huyện Bùi Hữu Nghĩa vẫn hết sức cương trực và thẳng tính. Chuyện kể lại rằng, một lần gặp chuyện bất bình, ông đã cho lính đánh đòn một cậu ấm, là em vợ của Bố chánh Truyện. Quan Nghĩa vốn đã là cái gai trong mắt bọn chúng nay lại chuốc thêm thù oán. Song ông không ngờ chúng âm thầm tìm cơ hội báo thù.
Trà Vang bấy giờ (Trà Vinh ngày nay) là địa bàn có đông đồng bào người dân tộc sinh sống. Đó là người Hoa, người Khmer, đông nhất là người Khmer. Họ có nhiều chùa chiền và nét văn hóa hết sức độc đáo. Thời Nguyễn Ánh, khi bị quân nhà Tây Sơn truy đuổi, Nguyễn Ánh chạy vào khu vực này và được người dân che chở, chu cấp lương thực. Nên khi giành được ngai vị và củng cố đất nước, Nguyễn Ánh nhớ đến đóng góp và ơn cưu mang mình nên đã xuống chiếu miễn thuế khai thác thủy sản cho dân vùng này. Tuy nhiên, đến năm 1848, một số người gốc Hoa đã lót tay, đi cửa sau với quan trên của Vĩnh Long là Tổng đốc Uyển, Bố chánh Truyện để "thầu" khai thác độc quyền thủy sản ở rạch Láng Thé. Quyết định cho phép người Hoa độc quyền khai thác tại rạch Láng Thé này đã đẩy người Khmer vốn nghèo lại rơi vào cảnh trắng tay.
Ông Hùng cho biết: "Vụ việc này được báo lên quan tri huyện Bùi Hữu Nghĩa. Thời điểm ấy, nhiều người cho rằng, vụ này chỉ cần mời hai bên lên làm việc và phân định trong ôn hòa nhưng quan tri huyện, vốn tính cương trực, hướng về người nghèo nên đã xử thẳng tay. Khi các đại diện người Khmer kéo lên khiếu kiện tại quan tri huyện, ông Bùi Hữu Nghĩa đã thẳng tay phê vào đơn: "Việc tha thuế thủy lợi là ơn huệ của vua Thế Tổ ban cho Thổ dân, nay ai nhỏ hơn vua Thế Tổ mà dám đứng ra bán rạch ấy thì có chém đầu nó cũng chẳng sao". Nghe lời xử của quan huyện, những người dân lành người Khmer từ lâu bị đè ép, hà hiếp đã tụ họp và vùng lên đập phá đồ đạc tài sản của những người gốc Hoa. Hai bên không kiềm chế đã xảy ra xung đột hết sức dữ dội. Sau cuộc hỗn chiến, bọn tham quan vốn đã có hiềm khích và ghét Bùi Hữu Nghĩa từ trước, nhân cơ hội này tung tin gây rối và cho bắt một số người dân Khmer và bắt luôn Bùi Hữu Nghĩa. Ngay sau đó ông được tạm giam tại Vĩnh Long, rồi giải về Gia định. Cùng với quá trình di lý đó thì một tờ sớ cũng được tống đạt lên triều đình, tố cáo Bùi Hữu Nghĩa "kích động người Khmer làm loạn, lạm phép giết người".
Bùi Hữu Nghĩa là một trong bốn "rồng vàng" của đất Đồng Nai. (Ảnh tư liệu)
Liệt nữ cứu chồng thoát chết
Khi hay biết tin Bùi Hữu Nghĩa bị giam cầm chờ ngày nhận tội chết, người vợ kiên trung đã tìm cách cứu chồng khỏi án tử. Cuộc hành trình này hết sức gian khổ, cam go với rất ít cơ hội thành công, nhưng với hy vọng mong manh, còn nước còn tát, bà Nguyễn Thị Tồn đã lên đường vào Kinh thành kêu oan.
Bà đón ghe bầu từ Định Tường (Tiền Giang ngày nay) ra Huế để đánh trống kêu oan cho chồng. Bà đã vượt qua muôn vàn thử thách, sóng gió và nguy hiểm đứng về phía dânmạng trong những ngày lênh đênh trên sông nước. Ra đến Huế, bà không đến thẳng những phủ quan trong triều mà tìm đến tư dinh của cụ Phan Thanh Giản. Lúc này, Phan Thanh Giản đang là Thượng thư Bộ Lại ở triều đình. May mắn bà gặp được cụ Phan và trình bày đầu đuôi vụ việc cũng như sự lộng hành, thối nát của các quan ở Vĩnh Long. Sau khi nghe qua vụ việc, cụ Phan đã khuyên bà tìm đến Tam pháp ty đánh trống kêu oan cho chồng.
Thời ấy, sự kiện bà Tồn đánh trống kêu oan cho chồng đã làm chấn động triều đình, chốn quan trường và dân thường biết tiếng. Sau khi biết chuyện vợ Bùi Hữu Nghĩa kêu oan, vua Tự Đức đã tha tội chết cho ông nhưng phải chịu "quân tiền hiệu lực" (làm lính ở Vĩnh Thông - Châu Đốc, An Giang ngày nay) để lập công chuộc tội. Còn bà Nguyễn Thị Tồn thì được Từ Dụ thái hậu ban tặng là tấm gương "Liệt phụ khả gia".
Anh hùng rơi lệ
Xót thương thay, tưởng rằng đã là cái kết có hậu, tuy nhiên, vì phận liễu yếu đào tơ, sức vóc mỏng manh, phải thân chinh cứu chồng, bà Tồn đã vĩnh viễn ra đi. Chuyện kể lại rằng, sau khi vào Kinh kêu oan cho chồng thành công, bà Tồn về lại quê nhà ở Biên Hòa thì đổ bệnh. Phần nhiều là do bà đã kiệt sức vì lao tâm, lao lực, bất chấp hiểm nguy, vượt qua mọi gian nguy về Kinh kêu oan. Bà Tồn lâm bệnh ngày một nặng và đã trút hơi thở cuối cùng tại quê nhà.
Lúc này Bùi Hữu Nghĩa đang ở vùng biên ải xa xôi, nhận được tin báo, ông được cho về, nhưng khi về tới nhà thì việc mai táng người vợ yêu dấu cũng đã xong xuôi. Không có nỗi đau nào bằng, không có sự sẻ chia nào lúc đau ốm và không có lời tiễn biệt cho người vợ thảo hiền trước phút lâm chung. Bùi Hữu Nghĩa nghẹn ngào khóc vợ: "Ngã bần, khanh năng trợ; ngã oan khanh năng minh, triều dã giai xưng khanh thị phụ khanh bệnh, ngã bất dược; khanh tử ngã bất táng, giang sơn ưng tiếu ngã phi phu". (Ta nghèo, mình hay giúp đỡ; ta tội, mình biết kêu oan, trong triều ngoài quận đều khen mình mới thật là vợ/ Mình bịnh, ta không thuốc thang; mình chết, ta không chôn cất; non sông cười ta chẳng xứng gọi là chồng). Người đời vì thế mà xót xa thương cảm, song cũng thầm bội phục.
Là một trong “Tứ rồng vàng” của đất Đồng Nai Tại Cần Thơ hiện có Khu du tích tưởng niệm Bùi Hữu Nghĩa hoành tráng, bề thế, đẹp và ấn tượng, đóng trên địa bàn quận Bình Thủy (đã được công nhận là di tích cấp quốc gia vào năm 1994). Người dân Đồng Nai thì lưu truyền và phong ông là một trong “tứ rồng vàng” bằng câu ca: "Đồng Nai có bốn rồng vàng - Lộc hoạ, Sang đàn, Nghĩa phú, Nghĩa thi". |
Trung Nghĩa