Theo tiến sĩ Gareth Evans - chính trị gia người Australia, thế kỷ 21 sẽ đánh dấu sự chuyển biến về tính chất hải quân hiện đại. Các thách thức an ninh phi truyền thống đòi hỏi các hoạt động quân sự thường trực thay vì chiến tranh. Trong đó, một xu hướng ngày càng rõ ràng là sự liên quan của hải quân trong hoạt động bảo vệ biên giới, phát hiện hoạt động cướp biển hoặc các hoạt động chống khủng bố tầm xa…
Nhu cầu này đòi hỏi “gói giải pháp tổng lực” gồm các chiến lược thông vận trên biển, cung cấp vũ khí, hậu cần hay khả năng đổ bộ, trên không, trên biển từ một tàu lớn. "Tàu mẹ" này còn phải có khả năng hoạt động trong nhiều giai đoạn ổn định trên biển và trải qua nhiều dạng nhiệm vụ. Đặc điểm này còn phù hợp với xu hướng tinh gọn hải quân, thậm chí cả với những nước có ngân sách dồi dào.
Mô hình New Zealand - Australia
Các nước trên thế giới đã lần lượt tìm đưa ra các sản phẩm đáp ứng yêu cầu trên. Tiêu biểu là Canterbury HMNZS của Hải quân New Zealand… Hải quân New Zealand có quân số không lớn, chỉ khoảng 2.100 người, tổ chức trong 1 hạm đội duy nhất, đóng ở căn cứ hải quân Auckland. Lực lượng ít, số lượng vũ khí, phương tiện chiến đấu trong biên chế không nhiều nhưng bù lại, các tàu chiến của hải quân nước này rất hiện đại. Để đáp ứng chiến lược trên và phù hợp với điều kiện nội tại, Hải quân New Zealand có chủ trương đa năng hóa chiến hạm, mà tiêu biểu là chiến hạm HMNZS Canterbury.
Trong khi các tàu chiến của hải quân nhiều nước phát triển theo hướng “chuyên môn hóa” thì HMNZS Canterbury được thiết kế để đảm đương nhiều nhiệm vụ như đổ bộ, hậu cần, chi viện… Điều đáng nói, sức mạnh của HMNZS Canterbury không phải là các vũ khí gắn trên tàu mà nằm ở những vũ khí tàu có thể mang theo.
HMNZS Canterbury
HMNZS Canterbury có lượng giãn nước 9.000 tấn, tốc độ 16-19 hải lý/giờ, có khả năng mang 4 trực thăng vận tải NH90, 1 trực thăng chống ngầm SH-2G… Trong đó, SH-2G là trực thăng vũ trang được thiết kế để chống lại các tàu ngầm, tàu nổi với vũ khí chủ yếu là ngư lôi Mk 46 hoặc Mk 50, tên lửa có điều khiển AGM-65 Maverick hoặc tên lửa chống hạm AGM-119. Với tốc độ tối đa 256 km/h và tầm hoạt động 1.000km, sức mạnh hỏa lực và khả năng cơ động của SH-2G đủ đảm bảo sự an toàn tối thiểu cho các tàu sân bay của nó.
Ngoài ra, phải kể tới khả năng mang 2 tàu đổ bộ nhỏ LCM, 16 xuồng, 16 xe tải, thủy thủ đoàn có 250 lính… của HMNZS Canterbury. Trong các nhiệm vụ đổ bộ đường biển, đây sẽ là lực lượng khó có thể coi thường.
Bên cạnh đó, Hải quân New Zealand cũng trang bị tàu tuần tiễu HMNZS Otago. Đây là lớp tàu có lượng choán nước 1.900 tấn, dài 85m, tầm hoạt động 6.000 hải lý. Và giống như HMNZS Canterbury, sức mạnh của HMNZS Otago nằm ở lực lượng không quân hải quân, chủ yếu là các trực thăng săn ngầm SH-2G.
Là quốc gia láng giếng với New Zealand, Australia cũng có chiến lược phát triển lực lượng hải quân tương tự. Hiện Australia đang biên chế tàu đổ bộ mang trực thăng HMAS Canberra. Đây có thể coi là tàu sân bay cỡ nhỏ với những vũ khí trang bị được gọi là “siêu phẩm” của nước này.
HMAS có tốc độ tối đa 20,5 hải lý/h, tầm hoạt động 9.000 hải lý liên tục 50 ngày đêm trên biển. Tàu đáp ứng các yêu cầu của tác chiến đổ bộ đại dương, chở 1.000 sĩ quan và lính cùng 150 xe tăng (M1A1) xe thiết giáp. Boong tàu rộng, cho phép 6 trực thăng hạ cánh hay cất cánh cùng một lúc. Khoang dưới tàu chứa 16 máy bay hạng nặng hoặc 24 máy bay hạng trung, nhẹ. Trên tàu có bệnh viện đầy đủ trang bị. Vũ khí trên tàu có 4 pháo bắn nhanh M242 cỡ 25mm. Hệ thống phòng thủ tên lửa có radar Giraffe quét xa trăm km, các thiết bị điện tử, tích hợp hoạt động... tiếp tục được lắp đặt...
Cường quốc hải quân cũng không chối từ
Quay trở lại với nhận định của tiến sĩ Gareth Evans, ngay cả các quốc gia có tiềm lực quân sự mạnh cũng để mắt tới lực lượng tàu đổ bộ kiêm tàu sân bay. Các trường hợp của Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc là những ví dụ tiêu biểu.
Là quốc gia có truyền thống phát triển lực lượng hải quân lâu đời và cũng đang sở hữu tàu sân bay (thực chất là tàu tuần dương hạng nặng mang máy bay chiến đấu), Nga đang đầu tư một cách nghiêm túc cho lực lượng tàu đổ bộ kiêm tàu sân bay cỡ nhỏ, cụ thể hóa bằng thương vụ mua 4 tàu Mistral của Pháp.
Mistral là một thiết kế của Pháp khá thông dụng. Nó kết hợp các tình năng của tàu sân bay trực thăng, tàu chỉ huy, kiểm soát và bệnh viện nổi. Những nhà máy đóng tàu của Nga chưa thể tự hoàn thành một con tàu hiện đại như vậy một cách nhanh chóng trong thời điểm hiện tại. Đó là lý do Nga quyết định chi tiền mua tàu của Pháp.
Tàu đổ bộ mang trực thăng Mistral
Tàu đổ bộ mang trực thăng Mistral có lượng choán nước 21.000 tấn, dài 210 m, có thể đạt tốc độ 18 hải lý/h. Phạm vi hoạt động 20.000 hải lý, thủy thủ đoàn 160 người, cùng lúc có thể trở 450 người và 16 máy bay trực thăng trong đó 6 chiếc có thể đồng thời trên boong.
Theo thông tin của nhà sản xuất, một chiếc tàu lớp Mistral có khả năng chứa 4 tàu lớn đổ bộ, 70 xe thiết giáp. Theo dự kiến, tàu Mistral sẽ được Nga trang bị 8 trực thăng tấn công Ka-52 và 8 chiếc Ka-29 và sẽ được đưa tới các vùng biển tranh chấp giữa Nga và các nước láng giềng, đặc biệt là Nhật Bản (Nga và Nhật Bản đang có tranh chấp biển đảo ở khu vực mà phía Nga gọi là quần đảo Nam Kuril, còn Nhật Bản thì gọi là “Lãnh thổ phương Bắc”).
Có tranh chấp với Nga nhưng tiềm lực quân sự của Nhật Bản bị hạn chế bởi Hiến pháp Hòa bình. Theo đó, Nhật Bản không chủ trương đóng tàu sân bay cỡ lớn, bởi đây bị tính là vũ khí tấn công. Hải quân Nhật Bản hiện duy trì hoạt động của các tàu sân bay cỡ nhỏ (có sàn đáp trực thăng). Tiêu biểu là tàu chở trực thăng lớp Hyuga. Đây là con tàu lớn nhất mà Nhật Bản đóng kể từ sau năm 1945. Hyuga có lượng giãn nước 19.000 tấn, dài 197m. Tàu trang bị hỏa lực phòng không, chống ngầm tương đối mạnh với: tổ hợp tên lửa đối không tầm trung RIM-162 ESSM, tên lửa chống ngầm RUM-139. Tàu có thể chở 11 trực thăng hạng trung, hạng nặng các loại…
Điều đáng nói, cả Nhật đang trong quá trình thương lượng mua các chiến đấu cơ F-35B của Mỹ. Đây là các chiến đấu cơ thế hệ thứ năm, có khả năng cất cánh đường băng ngắn, hạ cánh thẳng đứng. Một khi các chiến đấu cơ này được biên chế, các tàu sân bay của Nhật Bản đều dễ dàng cởi bỏ danh nghĩa “cỡ nhỏ”. Bởi F-35B sẽ kéo năng lực tác chiến của cả biên đội tàu, vốn là tàu sân bay chở trực thăng trở thành các tàu sân bay tiến công chiến đấu thực thụ.
Giống trường hợp của Nhật Bản, Hàn Quốc cũng đang chờ thời cơ để đưa tàu đổ bộ kiêm tàu sân bay trực thăng của mình trở thành tàu sân bay tiến công. Trong biên chế của Hải quân Hàn Quốc, tàu hiện đại và mạnh nhất là tàu đổ bộ Dokdo, được trang bị cho hải quân tháng 7/2007. Lượng choán nước 18.000 tấn, chiều dài 200m, có khả năng mang 15 máy bay trực thăng. Đây là chiến hạm lớn nhất của Hải quân Hàn Quốc và là kết quả đầu tiên của dự án LPX do Hải quân Hàn Quốc triển khai. Tàu đổ bộ tốc độ cao “Dokdo” được xây dựng dựa trên khái niệm “tấn công từ chân trời”.
Sàn thứ nhất của Dokdo có thể chứa 5 máy bay trực thăng UH-60 cùng một lúc, và sử dụng để triển khai các máy bay cất cánh ngắn và hạ cánh thẳng đứng kiểu Harrier hay F-35.
Sàn thứ hai gồm cabin, phòng chỉ huy, các hệ thống hỗ trợ và nơi ở của thủ thuỷ đoàn với diện tích đủ chỗ cho 700 quân đổ bộ. Sàn thứ ba là vị trí cho 2 tàu đổ bộ không khí - LCAC, Dokdo có thể chứa 70 xe tăng hoặc 200 xe tải, một tiểu đoàn cơ giới.
Ở phần đuôi của tàu có cửa lớn để “đổ” quân, vũ khí và trang thiết bị quân sự. Vũ khí trên tàu Dokdo gồm hệ thống tên lửa phòng không RIM-116 và hệ thống pháo phòng không tầm ngắn Goalkeeper.
Ngoài ra, Dokdo còn có chức năng như một tàu chỉ huy với hệ thống C4ISR. Nói cách khác, Dokdo có thể tác chiến như một “tư lệnh hạm”.
Tuệ Minh (tổng hợp)