"Sổ đen" của làng
Chúng tôi tìm đến xóm Rộc gặp ông Đinh Văn Thám, 77 tuổi - người biết rõ lịch sử phong tục, tập quán của làng nói chung, cũng như tục "đeo biển cho kẻ trộm" nói riêng. Theo ông Thám, tập tục này đã có từ thời Pháp thuộc. Hầu hết, các cụ cao niên trong làng không thể nhớ rõ thời gian cụ thể ra đời cái tập tục này, vì trong các tài liệu chính sử cũng không ghi lại, trong hương ước của làng cũng không ghi chép thông tin gì liên quan đến tục tên trộm đeo biển trước ngực này. Tuy nhiên, các cụ trong làng đều khẳng định có chuyện "đeo biển cho kẻ trộm".
Ông Đinh Văn Thám là người biết rõ về tục "đeo biển cho người ăn trộm"
Ông Thám cho hay, giống như ở khắp các vùng miền trong cả nước, nhà nước thực dân nửa phong kiến dựng lên những tay sai ở khắp các địa phương để quản lý người dân, đó là giai cấp địa chủ. Xứ Mường cũng không ngoại lệ, nhưng chỉ khác là tại xứ Mường thì đó là các nhà Lang. Nhà Lang được coi như là "vua" của một vùng. Thời đó, ông Quách Văn Cáy là nhà Lang, người cai trị ở vùng đất này.
Trong thời kỳ đó, ăn trộm được liệt vào tội cực kỳ nghiêm trọng. Cứ sau mỗi mùa vụ, người dân sẽ phải cống nạp thóc lúa cho nhà Lang; chăn nuôi được con gà, con lợn tốt, ngon cũng phải cống nạp cho nhà Lang. Sau đó, người của nhà Lang chia bao nhiêu thì người dân được dùng từng đó. Người dân bắn được con hươu, con hoẵng đều phải cống nạp nhà Lang một bên vai, phần còn lại chia cả làng. Do đó, ai ăn trộm trong làng đều được coi là đã trộm tài sản của nhà Lang và phải chịu hình phạt nghiêm khắc. Người dân tuyệt đối kiêng kỵ và ác cảm với hành vi ăn trộm, chỉ cần phát hiện kẻ nào có hành vi ăn trộm, dân làng sẽ trình báo lên nhà Lang. Sau khi nhận được thông báo, nhà Lang sẽ cho tay sai đi bắt trộm. Đội ngũ tay sai cho nhà Lang chính là những người dân, được nhà Lang nuôi ăn, nuôi mặc. Nhà Lang chỉ cần "hô" một tiếng thì chúng sẽ thẳng tay đàn áp trộm.
Đối với những tên trộm, khi bị dân chúng bắt, nhốt hoặc xích lại rồi đánh no đòn, khi đội ngũ tay sai đến, tên trộm còn bị đánh thêm một trận "thập tử nhất sinh" nữa. Tên trộm nào may mắn chạy thoát được mà bị bắt lại thì nhận đòn nặng hơn, thậm chí bị đánh đến tàn phế.
Một góc xóm Rộc
"Mõ ăn trộm"
Ông Thám cho rằng, vài năm trước thì tập tục đó vẫn còn, chủ yếu mang tính răn đe, giáo dục chứ không phải là hình phạt quá nặng nề. Người dân gọi tập tục đó bằng một cái tên nghe nhẹ nhàng hơn, tếu táo hơn là "mõ ăn trộm". Về cơ bản, tập tục này vẫn dựa trên những hình thức từ thời Pháp thuộc. Tên trộm sẽ bị dân làng buộc lại để xử lý. Dân làng sẽ dẫn tên trộm đã được đeo biển giễu qua các xóm của thôn và vừa đi vừa dùng loa để thông báo cho mọi người biết. Họ gọi đó là "sổ đen của làng" và coi đó là điều xấu hổ nhất.
Hiện nay, cuộc sống hiện đại, nhận thức được nâng cao, những thế hệ sau đã sửa dần những mặt "không hay" của tập tục đó. Do bản tính duy tình của người Việt Nam, tính cộng đồng và thương người của người Mường nên họ không gọi là "đeo biển cho kẻ trộm" nữa mà gọi bằng một cái tên nhẹ nhàng hơn là "mõ ăn trộm". Họ quan niệm rằng, bản thân việc ăn trộm đã là một điều đáng xấu hổ, khi bị phát hiện thì không cần báo cơ quan công an xử lý mà đưa đi giễu cho cả làng biết đã là hình phạt xứng đáng với hành vi của tên trộm vặt rồi.
Ông Thám kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện về giáo huấn kẻ trộm chứa đầy triết lý và tình thương: "Đó là trường hợp Quách Văn M. - tên trộm vặt trong làng. Nhà nghèo, nhưng M. không chịu khó học hành mà lại lêu lổng, ham chơi. M. "nghiện" chơi bi - a, bao nhiêu tiền có được M. cũng "đốt" vào những trận bi - a thâu đêm, suốt sáng. Khi hết tiền, M. đi trộm xe máy, xe đạp của người trong thôn. Trong một lần trộm xe đem bán, M. bị dân làng phát hiện, bắt. Mọi người không đánh M. mà gọi các cụ cao tuổi, các bậc già làng đến khuyên răn, chỉ rõ cho M. biết rằng, việc ăn trộm không những ảnh hưởng bản thân mà còn khiến bố mẹ không thể ngẩng mặt lên nhìn hàng xóm. Sau đó, làng gọi một người nức tiếng về cướp giật, vào tù ra tội, nay đã hoàn lương đến để nói chuyện với M.. Những câu chuyện được trả bằng máu và nước mắt của người đã từng lầm lỗi, giúp M. nhận thấy, nếu mình không thức tỉnh thì chắc chắn con đường tội lỗi mà M. đang đi sẽ phải giẫm lên máu và tù tội. M. cúi xin dân làng tha thứ và hứa, sẽ không bao giờ ăn trộm nữa.
Hoàng Thế Tào