Mỗi độ xuân về, khi những cánh đào đầu ngõ khoe sắc, làng bản của người Tày ở Lục Yên, Yên Bái lại rộn ràng không khí chuẩn bị cho một mùa Tết ấm cúng.
Ngày nay, dù cuộc sống hiện đại mang đến nhiều đổi thay, nhưng với bà con dân tộc Tày ở Lục Yên, Yên Bái, chiếc bánh chưng gù vẫn giữ nguyên giá trị văn hóa truyền thống. Đây không chỉ là món ăn quen thuộc trong dịp Tết, mà còn là biểu tượng của sự đoàn kết, tình yêu thương và niềm tự hào dân tộc.
Chiếc bánh chưng gù, với hình dáng đặc trưng và cách gói độc đáo, được thế hệ này truyền lại cho thế hệ khác như một cách giữ gìn bản sắc văn hóa.
Bánh chưng gù – một loại bánh truyền thống thường được bà con dân tộc Tày làm để thờ cúng tổ tiên, mang biếu ông bà, người thân vào dịp Tết.
Từ những đặc điểm, điều kiện sống, nên những người dân tộc trên địa bàn tỉnh Yên Bái đã biến tấu, sáng tạo ra những chiếc bánh gù với kích thước vừa phải, dễ dàng bóc, mang theo khi đi làm nương, rẫy. Từ đó, tạo thành nét đặc trưng riêng, mang đậm nét đẹp văn hóa dân tộc.
Hơn thế, bánh chưng gù còn là cách để tôn vinh nét đẹp của người phụ nữ vùng cao, ca ngợi sự chăm chỉ, chịu khó, cần cù của bà con.
Năm nào cũng vậy, cứ vào ngày cuối cùng của năm cũ gia đình bà Hoàng Thị Chỉnh (83 tuổi, Minh Xuân, Lục Yên, Yên Bái) tập trung con cháu để gói bánh chưng gù. Người thì lau lá dong, người chẻ lạt, người nấu đỗ, người thái thịt… mỗi người đều đóng góp vào một công đoạn tạo nên không khí quây quần ấm cúng.
Bên bếp lửa hồng quanh nhà sàn, các bà các mẹ tập trung gói bánh, các cháu gái cũng được lớp người cao niên trong gia đình hướng dẫn gói những chiếc bánh chưng gù vuông vắn.
Theo lời bà Chỉnh, năm nào cũng vậy, cứ vào dịp Tết Nguyên đán là bà lại cùng các con, các cháu làm bữa cơm tất niên và gói bánh chưng gù.
"Chẳng biết bánh chưng gù có tự bao giờ nhưng từ ngày còn nhỏ, tôi đã học theo các bà các mẹ gói và giờ đã ngoài 80 tuổi tôi vẫn gói và truyền lại cho các con các cháu", bà Chỉnh chia sẻ.
Bà Chỉnh cũng cho biết để làm được những chiếc bánh chưng gù phải trải qua nhiều công đoạn, từ chọn gạo là loại gạo nếp nương ngon, đến việc chọn đỗ, nấu đỗ sao cho vừa vặn, thịt lợn cũng phải chọn loại ba chỉ thơm ngon. Ngoài ra, lá dùng để gói bánh là lá dong, rửa sạch và lau khô.
"Để làm được chiếc bánh gù, phải thật sự khéo léo, khi gói thì đặt lá dong xuống mặt phẳng của mâm hoặc đặt trên bàn, cho gạo nếp vào sao cho vừa chiếc lá, nhiều gạo quá gói không được còn ít quá thì chiếc bánh không đẹp. Sau đó, trộn thêm đỗ đã nấu chín và thịt, gấp 2 mép lá dong lại với nhau tạo thành đường cong (gù) cho chiếc bánh, gói xong lấy lạt buộc chắc lại và đun bánh trong khoảng 7-8 tiếng", bà Chỉnh cho biết thêm.
Bánh chưng gù sau khi luộc có màu xanh đẹp, hương vị đậm đà, khi cắt bánh, tầng gạo, nhân đậu xanh và thịt đặt hài hòa, tất cả như một bức tranh sinh động của văn hóa người Tày.
Chị Bùi Thị Thúy Nga (du học sinh Úc) chia sẻ với Người Đưa Tin cảm xúc đầy tự hào và xúc động khi được trở về quê nhà dịp Tết năm nay. "Đi xa quê và Tết năm nay được về quê ngoại ăn Tết cùng gia đình tôi rất xúc động. Năm nay, tôi đã được bà ngoại hướng dẫn cách gói bánh chưng gù – loại bánh truyền thống của dân tộc tôi. Dù sống và học tập xa quê hương nhưng cứ mỗi dịp Tết đến xuân về được trở về quê nhà điều mà tôi luôn muốn làm đó là được học gói bánh và tìm hiểu về văn hóa, cội nguồn của dân tộc mình", chị Nga nói.
Việc đầu tiên khi bánh chín là gia chủ sẽ vớt bánh ra đĩa mang lên ban thờ thắp hương mời ông bà, tổ tiên. Với bà con nơi đây, bánh chưng gù không chỉ là món ăn truyền thống mà còn là câu chuyện về sự sum vầy, đoàn tụ trong những ngày xuân.