Theo kết quả dữ liệu của Web of Science (hay WoS, Clarivate, Mỹ) về công bố khoa học công nghệ năm 2019 (tính đến 31/12/2019), các nước ASEAN đã công bố tổng cộng 63.445 công trình trên các tạp chí ISI.
Rất vinh dự khi trong nhóm 10 trường đại học dẫn đầu có trường Đại học Tôn Đức Thắng (TDTU), đại diện duy nhất của Việt Nam, xếp thứ 7/10.
Theo kết quả công bố, đứng đầu tốp 10 vẫn là 2 đại học của Singapore gồm Đại học quốc gia Singapore (số 1) và tiếp đó là Đại học Kỹ thuật Nanyang (Có 2 tên đơn vị trong WoS liên quan đến đại học này nhưng thực tế chỉ là 1 đại học).
Các vị trí tiếp theo thuộc về 4 đại diện đại học rất mạnh của Malaysia theo thứ tự: Đại học Malaya, Đại học Putra Malaysia, Đại học Kebangsaan Malaysia, Đại học Sains Malaysia.
Riêng Đại học Tôn Đức Thắng của Việt Nam đứng thứ 7, trên 2 đại học hàng đầu của Thái Lan, Mahidol và Chulalongkorn. Vị trí thứ 10 là Đại học kỹ thuật Malaysia.
Như vậy top 10 về nghiên cứu khoa học trong đại học khu vực Đông Nam Á, Singapore vẫn là quốc gia đứng đầu với 2 đại học, Malaysia có 5, Việt Nam có 1 và Thái Lan có 2.
Trong đó Malaysia áp đảo về số lượng (chiếm đến 50%). Tuy nhiên, tổng số công trình trên tạp chí ISI (Viện Thông tin Khoa học gồm các tạp chí khoa học có uy tín trên thế giới) của 5 đại học này trong năm 2019 lại là 11.684, ít hơn tổng công trình công bố của 2 đại học Singapore (tổng công bố của 2 đại học Singapore là 12.995 công trình).
Kết quả trên cho thấy các đại học của Singapore đã đạt đẳng cấp cao, vượt trội trong khu vực và cả trên thế giới.
Việt Nam có 1 đại diện duy nhất - Đại học Tôn Đức Thắng (TDTU) trong TOP 10 là niềm tự hào cho cả hệ thống giáo dục đại học Việt Nam.
Trong thời gian gần đây và đặc biệt là năm 2019, TDTU đã xác lập được vị trí và đẳng cấp khoa học trong khu vực và trên thế giới. Trong giai đoạn 2016-2018, Đại học Tôn Đức Thắng được xếp vào nhóm 25 các cơ sở nghiên cứu hàng đầu khu vực ASEAN.
Năm 2019, Đại học Tôn Đức Thắng tiếp tục có sự phát triển mạnh mẽ, vượt bậc và bứt phá một cách ngoạn mục để gia nhập nhóm 10 đại học hàng đầu của khu vực.
Về bình diện quốc tế, TDTU được xếp hạng 960 trong tổng số các đại học tốt nhất thế giới theo URAP, TOP 1000 đại học tốt nhất thế giới và là đại học số 1 Việt Nam theo ARWU năm 2019, tốp 200 các đại học tốt nhất thế giới về phát triển bền vững theo THE năm 2019.
Có được những thành công trên phần lớn là nhờ vào cách quản lý, hoạt động của nhà trường.
Theo đó, đại học Tôn Đức Thắng là trường đại học công lập còn khá trẻ (23 tuổi), với phương thức tự chủ hoạt động gần như toàn diện, theo quyết định thí điểm của Chính phủ.
Chính cơ chế này, cùng với sự quản trị xuất sắc đã giúp TDTU từ một đại học còn rất trẻ hoàn toàn không nhận kinh phí hàng năm từ ngân sách của Nhà nước để đầu tư và chi thường xuyên.
Thành tựu vào tốp hàng đầu khu vực và thế giới, không thua kém những trường đại học ở các nước có thu nhập cao như Singapore, Thái Lan… là đóng góp xuất sắc cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam, đưa giáo dục nghiên cứu khoa học của đại học Việt Nam vào bản đồ khoa học khu vực và thế giới.
Triển vọng ở một trường đại học
Để đánh giá về một đại học nghiên cứu, người ta không chỉ quan tâm đến tổng số phát kiến và sáng tạo khoa học thông qua công trình công bố trên ISI, bao gồm chỉ số trích dẫn, chỉ số ảnh hưởng của công bố, số công bố trên tạp chí chính thức/tổng công bố (công bố trên tạp chí có uy tín của ISI0) và số lượng công bố mà đại học đấy có quyền sở hữu trí tuệ.
Điều quan trọng nhất ở đây là tốc độ tăng trưởng của công bố giữa năm sau so với năm trước, vì đây là khuyhn hướng phát triển (tốc độ tăng trưởng mà bền vững sẽ cho thấy đại học đấy có khả năng đi xa đến đâu).
Tính tổng trong 3 năm: 2016, 2017, 2018, TDTU công bố 2372 công trình ISI, thấp hơn Đại học hoàng gia Chulalongkron (6857), Đại học Mahidol (7391) của Thái Lan, và thấp hơn rất nhiều so với Đại học kỹ thuật Nan Yang (20.049); và Đại học quốc gia Singapore (24.074). Trong giai đoạn đó, TDTU chỉ đứng thứ 20 trong các đại học và đứng thứ 23 trong TOP 25 đại học và cơ sở nghiên cứu Khoa học - Công nghệ xuất sắc nhất ASEAN.
Nhưng tính riêng năm 2019, TDTU đã công bố 2130 công trình ISI, gần bằng số lượng 3 năm trước đó cộng lại. Nếu so sánh, TDTU đã vượt Chulalongkorn và Mahidol, khoảng cách giữa TDTU và NUS chỉ còn 3,4 lần; giữa TDTU và NYTU chỉ còn 2,67 lần thay vì 10,14 lần và 8,45 lần như 3 năm trước năm 2019.
Tốc độ tăng trưởng khoa học-công nghệ của TDTU hiện đang theo cấp số nhân và Nhà trường đặt mục tiêu đuổi kịp NUS trong từ 7 đến 10 năm tới (tính cả việc NUS vẫn tiếp tục tăng trưởng). Nếu 2 nền tảng "Tự chủ đại học toàn diện" và "Quản trị đại học hiệu quả" của nhà trường vẫn được duy trì.