Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đang dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động trong quá trình tham gia và thụ hưởng các quyền lợi về BHXH, đáp ứng các yêu cầu về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực BHXH.
Dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) với 5 nhóm chính sách được chi tiết hóa thành 18 nội dung lớn.
Bổ sung về trợ cấp hưu trí xã hội
Chính sách 1: Xây dựng hệ thống BHXH đa tầng, linh hoạt
Dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) bổ sung về trợ cấp hưu trí xã hội, trong đó quy định, công dân Việt Nam từ đủ 80 tuổi trở lên mà không có lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng khác thì sẽ được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội do ngân sách nNà nước đảm bảo.
Người lao động khi đến tuổi nghỉ hưu có thời gian đóng BHXH (bao gồm bắt buộc và tự nguyện) chưa đủ điều kiện hưởng lương hưu và chưa đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội được lựa chọn hưởng trợ cấp hàng tháng (thấp nhất bằng với mức trợ cấp hưu trí xã hội) cho thời gian trước khi đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội tùy thuộc vào thời gian đóng, tiền lương, thu nhập tháng đóng BHXH của người lao động; đồng thời trong thời gian hưởng trợ cấp hàng tháng thì được hưởng bảo hiểm y tế do ngân sách nhà nước đảm bảo.
Để phù hợp với thực tiễn triển khai trong khuyến khích các địa phương, đảm bảo tính ổn định, không gây xáo trộn cũng như phát sinh tăng nguồn lực thực hiện dự thảo quy định việc tổ chức thực hiện: Đối với trợ cấp hưu trí xã hội do ngân sách Nhà nước đảm bảo do các địa phương thực hiện cùng với các chính sách khác đối với người cao tuổi; Trợ cấp hàng tháng (liên kết tầng) do quỹ bảo hiếm xã hội đảm bảo do cơ quan BHXH thực hiện.
Dự thảo Luật bổ sung quy định giao Chỉnh phủ quyết định điều chỉnh giảm dần độ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội phù hợp với khả năng của ngân sách Nhà nước từng thời kỳ, phấn đấu đến năm 2030 khoảng 60% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội hằng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội.
Bổ sung chế độ thai sản vào chính sách BHXH tự nguyện
Chính sách 2: Mở rộng diện bao phủ đối tương tham gia BHXH
Dự thảo Luật BHXH (sửa đổi) bổ sung đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc: Chủ hộ kinh doanh; Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã không hưởng tiền lương; Người lao động làm việc không trọn thời gian.
Bổ sung quyền lợi hưởng các chế độ ốm đau, thai sản đối với đối tượng người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn (tham gia và thụ hưởng đầy đủ các chế độ như đối tượng cán bộ, công chức).
Bổ sung chế độ thai sản vào chính sách BHXH tự nguyện (mục 1 Chương VI): Dự thảo Luật quy định người lao động tham gia BHXH tự nguyện khi sinh con được hưởng trợ cấp bằng 2.000.000 đồng cho một con, do ngân sách Nhà nước đảm bảo.
Bổ sung quy định tính tỉ lệ hưởng lương hưu nhằm phù hợp với thông lệ quốc tế thông qua thực hiện các hiệp định về BHXH được ký kết giữa Chính phủ Việt Nam và các nước, đồng thời phù hợp với quy định giảm số năm đóng BHXH tối thiểu để được hưởng lương hưu (Điều 73). Nội dung sửa đổi này nhằm thể chế hóa nhiệm vụ, giải pháp cụ thể đề ra tại Nghị quyết số 28-NQ/TW.
Giảm số năm đóng BHXH tối thiểu để được hưởng chế độ hưu trí
Chính sách 3, mở rộng diện bao phủ đối tượng thụ hưởng BHXH (lương hưu, BHXH hằng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội)
Về điều kiện hưởng chế độ hưu trí sửa đổi theo hướng giảm số năm đóng BHXH tối thiểu để được hưởng chế độ hưu trí từ 20 năm xuống 15 năm nhằm tạo cơ hội cho những người tham gia muộn hoặc quá trình tham gia không liên tục nên có thời gian đóng BHXH ngan được hưởng lương hưu (Điều 71).
Về BHXH một lần, nghiên cứu bổ sung quy định theo hướng khuyến khích người lao động bảo lưu thời gian đóng để hưởng lương hưu thay vì nhận BHXH một lần như: Giảm điều kiện về thời gian đóng BHXH tối thiểu để được hưởng lương hưu (từ 20 năm xuống còn 15 năm, không áp dụng đối với người hưởng BHXH một lần); Người lao động khi hết tuổi mà không đủ điều kiện hưởng lương hưu sẽ có thêm sự lựa chọn: nếu không nhận BHXH một lần thì được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng; Được ngân sách Nhà nước mua bảo hiểm y tế; Người lao động được hưởng các quyền lợi về ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp.
Về quy định hưởng BHXH một lần, ban soạn thảo đang có 2 phương án xin ý kiến: Phương án 1 (giữ nguyên quy định hiện hành của Luật và Nghị quyêt 93/2015/QH13): "Sau 12 tháng không thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, không tham gia BHXH tự nguyện và có thời gian đóng bao hiểm xã hội chưa đủ 20 năm". Phương án 2: "Sau 12 tháng không thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, không tham gia BHXH tự nguyện và có thời gian đóng BHXH chưa đủ 20 năm mà người lao động có yêu cầu thì được giải quyết một phần nhưng tối đa không quá 50% tổng thời gian đã đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất. Thời gian đóng BHXH còn lại được bảo lưu để người lao động hưởng chế độ BHXH khi đủ tuổi nghỉ hưu".
Bổ sung các biện pháp xử lý trốn đóng BHXH
Chính sách 4: Bổ sung nội dung quy định quản lý thu, đóng BHXH
Bổ sung nội dung quy định quản lý thu, đóng BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyên (từ Điều 36 đến Điều 44) nhằm nâng cao trách nhiệm của các cơ quan trong việc tổ chức thực hiện thu BHXH và trách nhiệm người sử dụng lao động trong việc đóng BHXH cho người lao động, góp phần hạn chế tình trạng trốn đóng BHXH gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động như hiện nay.
Bổ sung các biện pháp xử lý trốn đóng BHXH: Quy định nộp số tiền bằng 0,03%/ngày tính trên số tiền trốn đóng (tương tự như tiền chậm nộp thuế); Cơ quan có thẩm quyền quyết định ngừng sử dụng hóa đơn đối với người sử dụng lao động trốn đóng bảo hiếm xã hội từ 6 tháng trở lên; Cơ quan có thấm quyền quyết định hoãn xuất cảnh đối với với trường họp người sử dụng lao động trốn đóng bảo hiểm xã hội từ 12 tháng trở lên; Quy định tổ chức Công đoàn và cơ quan bảo hiểm xã hội có thẩm quyền khởi kiện vụ việc về BHXH ra Toà án; Khi có dấu hiệu phạm tội trốn đóng BHXH theo quy định của Bộ luật Hình sự, cơ quan BHXH kiến nghị khởi tố theo quy định của pháp luật; Bổ sung trách nhiệm của người sử dụng lao động phải bồi thường cho người lao động nếu không tham gia hoặc tham gia BHXH bắt buộc không đầy đủ, kịp thời mà gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động (khoản 6 Điêu 24).
Ban soạn thảo đề xuất 2 phương án quy định về tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc đối với người lao động đóng BHXH theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định: Phương án 1, tiền lương làm căn cứ đóng BHXH là tiền lương tháng bao gồm mức lương và phụ cấp lương, các khoản bổ sung khác được xác định bằng mức tiền cụ thể ghi trong hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật lao động. Phương án 2, tiền lương làm căn cứ đóng BHXH là tiền lương tháng bao gồm mức lương và phụ cấp lương, các khoản bổ sung khác theo quy định của pháp luật lao động.
Về chế độ thai sản, sửa đổi một số quy định cho phù hợp với thực tiễn như xác định tuổi thai nhi; quy định “sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý. Sửa quy định về điều kiện đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con mà con chết để phù hợp với thực tiễn, điều kiện “đã nghỉ hưởng chế độ ít nhất 4 tháng” không áp dụng đối với trường họp sau khi sinh con mà con chết.
Về chế độ hưu trí, quy định thống nhất với Bộ luật Lao động năm 2019 về tuổi nghỉ hưu/điều kiện về tuổi hưởng lương hưu.
Quy định về thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định được tính cho đến khi Nhà nước thực hiện cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang (Nghị quyết số 27-NQ/TW). Thời gian đóng BHXH từ khi thực hiện cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang thực hiện tính bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của toàn bộ thời gian.
Quy định về mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH trong trường hợp trong quá trình đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, người lao động có khoảng thời gian đóng bảo hiểm xã hội liền kề với bình quân tiền lương làm căn cứ đóng của thời gian này cao hơn bình quân tiền lương làm căn cứ đóng BHXH của những năm cuối thì người lao động được chọn tiền lương làm căn cứ đóng BHXH liền kề tương ứng để tính mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội.
Về sửa đổi, bổ sung quy định về trợ cấp một lần khi nghỉ hưu để khuyến khích người lao động tiếp tục đóng BHXH sau tuổi nghỉ hưu, ban soạn thảo đề xuất 2 phương án: Phương án 1, mức trợ cấp một lần được tính theo số năm đóng BHXH cao hơn số năm tương ứng với tỉ lệ hưởng lương hưu 75% cứ mỗi năm đóng BHXH thì được tính bằng 0,5 lần của mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng BHXH. Phương án 2, mức trợ cấp một lần được tính theo số năm đóng BHXH cao hơn số năm tương ứng với tỉ lệ hưởng lương hưu 75% cứ mỗi năm đóng BHXH thì được tính bằng 0,5 lần của mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng BHXH. Đối với trường họp người lao động đã đủ điêu kiện hưởng lương hưu theo quy định tại Luật này mà tiếp tục đóng BHXH thì mỗi năm đóng BHXH sau độ tuổi nghỉ hưu cao hơn số năm tương ứng với tỉ lệ hưởng lương hưu 75% được tính bằng 2 lần của mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội.
Về chế độ tử tuất, sửa đổi quy định về điều kiện về tuổi của thân nhân hưởng trợ cấp tuất hàng tháng phù hợp với lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu. Sửa đổi quy định về trợ cấp mai táng theo hướng không quy định về thời gian đóng tối thiểu đối với trường hợp đang tham gia BHXH chết.
Chính sách 5: Đa dạng hoá danh mục, cơ cấu đầu tư quỹ BHXH theo nguyên tắc an toàn, bền vững, hiệu quả.
Về chi phí quản lý BHXH, ban soạn thảo đề xuất 2 phương án quy định chi phí quản lý BHXH: Phương án 1, mức chi phí quản lý BHXH được tính trên cơ sở số phần trăm của dự toán thu bảo hiểm xã hội. Phương án 2, mức chi phí quản lý bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở số phần trăm của dự toán thu, chi bảo hiểm xã hội.
Ngoài ra, bổ sung quy định trong dự thảo Luật BHXH về hội đồng quản lý bảo hiểm xã hội.
Tuệ Minh