Do cầu Long Biên năm đó còn hẹp chưa được mở rộng hai bên nên 4 chiếc xe này chở khách đi Hưng Yên không thể qua được cầu đã phải đi phà sang bên kia sông. Năm 1923, việc mở rộng đường 2 bên cầu hoàn thành nên xe không phải qua phà nữa.
Rồi số đầu xe tăng nhanh, bến Cột đồng hồ trở nên chật chội nên hội đồng thành phố quyết định chuyển bến ra chỗ chuyên bán Nứa (cách Cột đồng hồ không xa về phía bắc) vì thế mới có tên bến Nứa.
Ba hãng xăng là Shell, Socony và Texaco (của Mỹ) mở điểm bán xăng và Texaco đã dành được quyền tài trợ xây nhà bán vé khang trang, trên nóc có cột hình vuông 4 mặt sơn chữ Texaco.
Từ bến Nứa, hàng ngày có xe đi Hưng Yên, Sơn Tây, tuyến ngắn chạy đến Chèm. Khách chủ yếu là người buôn bán và các chức dịch nông thôn đi Hà Nội sắm hàng hóa. Đi Sơn Tây có 4 hãng lớn gồm: Tư Đường, Chí Thành, Mỹ Lâm và Larriveé (chủ Pháp).
Tuyến đi Hưng Yên thì thống soái là hãng Con Thỏ. Chủ là Lê Hữu Luân, ông này xuất thân là thợ mộc rong, nhà xe Bảo Ký thấy nhanh nhẹn cho làm nhân viên đứng đón khách ở bến rồi Luân tố cáo ngầm một phụ xe không chăm khách nên được cất nhắc lên làm phụ xe và sau đó đi học lái. Nhờ tiêu pha tằn tiện, Luân mua được chiếc xe cũ tự chạy và dần dần bứt lên làm chủ hãng với 29 chiếc.
Phía nam Hà Nội có bến Kim Liên, vốn trước đó là chợ của làng Kim Liên. Bến mở vào cuối những năm 1920 do bến ban đầu nằm gần Cửa Nam cản trở giao thông nội đô nên hội đồng thành phố quyết định chuyển xuống Kim Liên. Bến này có xe tuyến dài đi Nam Định, Thái Bình, tuyến ngắn đi Phủ Lý, Thường Tín, Văn Điển và Ngọc Hồi. Phía tây có bến Kim Mã, trước đó vốn là hồ ao sau thành phố mở mang đã cho lấp hồ, bến hình thành cũng vào cuối những năm 1920, chuyên chở khách đi Sơn Tây, Hòa Bình, tuyến ngắn đi Hà Đông và Ba La.
Xe buýt thời Pháp chỉ có một cửa lên xuống ở phía sau. Ban đầu có 2 hàng ghế gỗ sát thành xe như ghế tàu điện và tàu hỏa, ở giữa là dành chỗ đi lại. Nhưng sau đó nhận thấy để ghế dọc chở ít khách nên các hãng xe cải tiến thành ghế ngang chở được nhiều khách hơn, trung bình mỗi xe chở khoảng 30 khách.
Năm 1930 cả Bắc Kỳ có gần 5.000 xe các loại trong đó có 405 xe buýt nhưng tập trung chủ yếu ở Hà Nội, số xe ở Hải Phòng bằng một phần ba Hà Nội. Thời kỳ này xe buýt cạnh tranh quyết liệt với tàu hỏa nên có câu vè:
Ve vẻ vè ve
Cái vè xe buýt
Đút khách đằng đít
Lái xe ngồi đầu
Đi qua ổ trâu.
Bươu đầu bẹt đít
Đường bằng chạy tít
Một loáng về nhà
Còn hơn ra ga
Chờ anh tầu lửa
Năm 1941, có tờ báo Pháp đã vẽ tranh châm biếm về xe buýt ở Hà Nội. Phần giữa xe ép sát đất nhưng trên nóc vẫn còn chất hàng hóa cao tới...mặt trời. Sở dĩ có chuyện này vì chiến tranh thế giới thứ II xảy ra nên xăng dầu nhập vào Việt Nam khó khăn, nhiều hãng phải cải tiến xe để chạy than nên mới dẫn đến tình trạng chở khách quá tải.
Nguyễn Ngọc Tiến