Ngân hàng thế giới (WB) vừa ra công bố báo cáo “Điểm lại tháng 8/2022: Giáo dục để tăng trưởng” cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam. Báo cáo gồm 2 phần chính nói về tình hình kinh tế Việt Nam, những triển vọng sau đại dịch Covid-19 và tầm quan trọng của giáo dục sau phổ thông tại Việt Nam.
Diễn biến kinh tế gần đây và triển vọng
Theo nhận định của báo cáo, gần đây môi trường kinh tế toàn cầu đang trở nên thách thức hơn. Sau 2 năm dịch bệnh Covid-19, nền kinh tế đang phải đối mặt với những cú sốc mới, một trong số đó phải kể đến là xung đột giữa Nga và Ukraine. Bất chấp những cú sốc và tình trạng bất định gia tăng gần đây, nền kinh tế Việt Nam vẫn đang phục hồi.
Sau đợt giãn cách xã hội do dịch COVID hồi quý 3/2021, nền kinh tế bật tăng trở lại, tăng trưởng 5,2% trong quý 4/2021 và 6,4% trong nửa đầu năm 2022. Sự phục hồi này đạt được chủ yếu nhờ nhờ khu vực công nghiệp chế tạo, chế biến có khả năng chống chịu và sự phục hồi vững chắc của khu vực dịch vụ.
Sự phục hồi mạnh mẽ của nhu cầu trong nước, đặc biệt là đối với dịch vụ, cũng đóng góp vào tăng trưởng. Biên giới quốc gia mở cửa trở lại vào tháng 3/2022 đang mang đến sự hồi sinh cho ngành du lịch.
Theo báo cáo, GDP được dự báo sẽ tăng 7,5% trong năm 2022 và 6,7% trong năm 2023. Khu vực dịch vụ sẽ tiếp tục đà phục hồi mạnh mẽ khi người tiêu dùng tăng chi tiêu để thỏa mãn nhu cầu bị dồn nén, và lượng khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam tăng mạnh vào mùa du lịch Thu 2022/Đông 2023.
Tăng trưởng xuất khẩu sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo được kỳ vọng sẽ tiếp tục giữ vững, tuy có thể giảm tốc phần nào do Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu và Trung Quốc trải qua giai đoạn tăng trưởng chậm lại. Lạm phát được dự báo sẽ duy trì ở mức khoảng 4% trong năm 2022 và năm 2023.
Tuy nhiên, báo cáo cũng chỉ ra rằng triển vọng kinh tế Việt Nam phải đối mặt với rủi ro tăng cao. Ở trong nước, thách thức bao gồm những khó khăn trong hoạt động kinh doanh và tình trạng thiếu lao động, đặc biệt ở các ngành dịch vụ và công nghiệp chế biến, chế tạo. Lạm phát tăng có thể ảnh hưởng đến sự phục hồi của tiêu dùng hộ dân cư mặc dù thu nhập của các lao động đã có phần khởi sắc so với thời kỳ dịch bệnh.
Đối với khu vực kinh tế đối ngoại, sự giảm tốc trầm trọng hơn so với kỳ vọng của các đối tác thương mại quan trọng hàng đầu của Việt Nam là rủi ro chính. Việc tiếp tục giãn cách xã hội để kiểm soát dịch Covid-19 ở Trung Quốc có thể khiến tình trạng gián đoạn chuỗi giá trị kéo dài hơn và ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chế biến, chế tạo của Việt Nam.
Căng thẳng địa chính trị gia tăng đã làm tăng mức độ bất định và có thể gây ra những thay đổi trong xu hướng thương mại và đầu tư, ảnh hưởng đến nền kinh tế có độ mở cửa cao như Việt Nam.
Xung đột Nga - Ukraine đã khiến cho giá lương thực, thực phẩm và nhiên liệu tăng đáng kể trên toàn cầu và dẫn đến giá cả cao hơn tại Việt Nam. Giá lương thực, thực phẩm cao hơn làm giảm sức mua thực của các hộ gia đình và có khả năng làm tăng tỷ lệ nghèo.
Cụ thể để lý giải tại sao tác động đến nghèo, báo cáo đã chỉ rằng nếu CPI tăng 10%, các tính toán sơ bộ cho thấy sức mua của các hộ gia đình (dựa trên thói quen tiêu dùng thực tế) giảm từ 5,4% đối với nhóm 10% có thu nhập thấp nhất đến 6,7% đối với nhóm 10% có thu nhập cao nhất.
Giáo dục để tăng trưởng
Đánh giá thành tựu của Việt Nam theo báo cáo của WB, trong 25 năm qua, Việt Nam đã mở rộng khả năng tiếp cận giáo dục, hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và nâng cao tỷ lệ nhập học giáo dục trung học cơ sở, trung học phổ thông và giáo dục sau phổ thông. Cùng với đó, lĩnh vực giáo dục sau phổ thông đã trải qua hai giai đoạn phát triển rõ rệt.
Theo báo cáo, hệ thống giáo dục sau phổ thông phát triển hơn sẽ là chìa khóa để thúc đẩy tăng năng suất lao động của Việt Nam và do đó góp phần thực hiện thành công mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2035 và quốc gia thu nhập cao vào năm 2045.
Hiện nay, hệ thống giáo dục sau phổ thông của Việt Nam đang hoạt động chưa thực sự hiệu quả như mong đợi. Khả năng tiếp cận giáo dục sau phổ thông của học sinh Việt Nam, tính bằng tỷ lệ nhập học chung, đạt dưới 30%, một trong những mức thấp nhất trong số các nước Đông Á. Kết quả đầu ra giáo dục sau phổ thông của Việt Nam, đo bằng tỷ lệ tốt nghiệp gộp, chỉ đạt 19%.
Báo cáo đã chỉ ra một số nguyên nhân dẫn đến kết quả khiêm tốn của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Các yếu tố cầu bao gồm chi phí cơ hội cao và chi phí tài chính ngày càng tăng khi theo đuổi giáo dục đại học, kết hợp với suất sinh lợi đang có xu hướng giảm. Các yếu tố cung liên quan đến sự chênh lệch giữa kỹ năng và việc làm, đầu tư hạn chế từ Nhà nước, và cấu trúc thể chế quản lý giáo dục đại học yếu kém và phân tán.
Về những định hướng trong thời gian tới, WB đã đưa ra 4 mục tiêu chuyển đổi quan trọng nhằm vào định hướng phát triển của Việt Nam, đó là: Cải thiện khả năng tiếp vận công bằng; nâng cao tính phù hợp, hài hòa các chương trình đào tạo với nhu cầu kỹ năng; tăng cường đảm bảo tài chính bền vững; và cải thiện về quản trị trong lĩnh vực giáo dục đại học.