Vì già Ma Cai là bậc cao niên và cũng là vợ của già Ya Tang (đã mất), vị thầy cúng cuối cùng phụ trách việc lễ lạt, cúng bái của đền Sóp. Khi không còn thầy cúng trông đền nữa, cũng đồng nghĩa với việc ngôi đền bị lãng quên. Câu chuyện về những cổ vật quý trong đền, hậu thế người Churu ở làng Sóp cũng chẳng ai buồn nhớ nữa.
Dấu tích người trông đền
Những câu chuyện về các ngôi đền (Bơ- Mung) chứa đầy cổ vật của người Chàm trong các làng đồng bào Churu ở Tà In đã thôi thúc bước chân chúng tôi lên đường. Từ thị trấn Liên Nghĩa thuộc huyện Đức Trọng, xuôi theo QL 20, đến ngã ba đập thủy điện Đại Ninh là đường vào vùng Tà In, nơi cư ngụ bao đời của người Churu. Ở Lâm Đồng người Churu sinh sống rải khắp các vùng phía Đông và Đông Nam, nơi giáp với các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận và Đồng Nai.
Tập tục của họ là chỉ sống ở vùng đồi núi xa xôi, hẻo lánh xen lẫn các thung lũng, có các con suối để tiện trồng lúa nước. Làng Sóp của người Churu, nơi có ngôi đền chứa cổ vật cũng không nằm ngoài truyền thống đó, ngày nay làng Sóp được phân thành thôn thuộc xã Đà Loan, của huyện Đức Trọng.
Đường vào thôn Sóp quanh co, khúc khuỷu qua nhiều dốc cao, núi thẳm và khe suối, con đường đôi lúc chỉ lọt bánh xe đi, nhiều đoạn không có người ở. Cái nắng đầu mùa như thiêu đốt khiến cỏ cây hai bên đường vàng úa, xác xơ, gió từng đám tung lên bụi mù. Phải mất gần 3 giờ đồng hồ thì chúng tôi đến được làng.
Làng Sóp sống trong thung lũng, có đập tích nước, trên đồi là những vạt cà phê, dưới sườn trũng những nương lúa non đang kỳ ra lá. Lối sống của đồng bào Churu nơi đây giờ đã đổi thay nhiều, họ không còn co cụm, bó buộc như ngày xưa nữa. Việc vận dụng kỹ thuật mới vào sản xuất, nông nghiệp, chăn nuôi cho năng suất, vì thế đời sống người dân được nâng cao hơn. Trong gầm của những ngôi nhà sàn người dân đã có xe máy, máy cày, bên cạnh đó họ biết nuôi trâu, bò, heo, gà... để bán chứ không mang tính tự cung tự cấp xưa nữa.
Già Ma Cai sống dưới chân đền Sóp từng thấy trong đền rất nhiều cổ vật
Nhưng điều dễ thấy là tính chất quần cư, mang tính cộng đồng vẫn còn hiện rõ, anh em con cháu người Churu sống quây quần với nhau, gồm nhiều thế hệ. Chuyện một nhà thì cả làng đều biết. Họ chia sẻ cái ăn, cái mặc, niềm vui hay nỗi buồn lẫn nhau. Điều đặc biệt là đồng bào rất thật thà và mến khách. Biết chúng tôi là nhà báo lặn lội về làng để "nghiên cứu" ngôi đền, ai nấy đều hồ hởi bắt chuyện. Một người đàn ông trung tuổi chỉ đường đến nhà trưởng thôn Ya Hoa.
Nhà Ya Hoa lớn, nằm trên con dốc đầu làng, với vườn cà phê xanh mướt, nhưng thật buồn, cả nha Ya Hoa đi vắng. Mon men hỏi đường, người ta lại chỉ chúng tôi đến nhà Ya Bang. Ya Bang được xem là cao niên trong làng, có "cái bụng" hiểu về cổ vật đền Sóp cũng như các tập tục cúng bái. Thế nhưng nối tiếp thất vọng, khi chúng tôi tìm đến, thì người con gái của Ya Bang cho biết, ông đã đi chăm trâu trong thung lũng từ sáng sớm, đến cuối ngày mới về.
Chúng tôi đem hỏi chuyện về ngôi đền và những báu vật mà cha ông họ từng thờ cúng trong đền Sóp, thì gần như không ai biết. Còn hỏi đến thầy cúng đền thì nhiều người cười vì cho rằng, đó là chuyện của người xa xưa. Hóa ra cách đây gần 10 năm, người dân làng Sóp đã theo đạo Thiên Chúa nên tục trông giữ và cúng đền Sóp cũng không còn. Rất may cho chúng tôi khi gặp được già Ma Cai (70 tuổi) là vợ của già Ya Tang (đã mất)- ông cũng là vị thầy cúng cuối cùng từng có thời gian trông đền Sóp.
Là vợ của một người từng gắn bó với đền nên "cái bụng" Ma Cai rất hiểu về những câu chuyện về đền. Gặp chúng tôi già Ma Cai vui vẻ tiếp chuyện. Già cho biết, từ lâu rồi không có cán bộ về làng, nên quý lắm, già lấy áo và xà-rông (váy) ra mặc để tiếp chuyện với khách. Ngay cả trang phục truyền thống mà già Ma Cai mặc cũng có sự giao thoa giữa người Churu, Chăm và K'ho. Người Churu biết trồng lúa, nuôi heo, gà... người Chăm biết dệt vải, rèn kim khí... họ mang đổi với nhau. Từ nét sinh hoạt hàng ngày cũng cho thấy, người Churu nơi đây có quan hệ khăng khít với người Chàm tự bao đời.
Già Ma Cai bảo, bản thân sinh ra và lớn lên trên đám ruộng, con rẫy ở đây, khi biết khôn đã thấy Bơ- Mung của làng được những bậc cao niên trông giữ rồi. Bơ- Mung được dựng trên ngọn đồi cao, thuở trẻ các ngày lễ, Ma Cai thường theo chân người lớn vào Bơ- Mung thì thấy vô số đồ vật quý, được để ở nơi trang trọng. Khi "bắt" Ya Tang về làm chồng (người Churu theo chế độ mẫu hệ), thì chồng già được làng giao cho chức thầy cúng. Ya Tang cúng bệnh người đau ốm, cúng cho mùa màng bội thu, mưa thuận, gió hòa, người qua hoạn nạn và tất nhiên nhiệm vụ quan trọng là phải trông coi các báu vật trong đền Sóp. Nhưng sau khi Ya Tang mất đi thì không còn ai nối nghiệp cúng bái nữa. Dân làng cũng theo đạo Thiên Chúa, nên gần 10 năm nay người dân làng không còn lên đền Sóp, ngôi đền đã bỏ hoang trên đỉnh đồi.
Tuy nhiên, những câu chuyện về ngôi đền thiêng vẫn còn hằn in trong ký ức của già Ma Cai. Cụ không chỉ ở làng Sóp mà các làng khác trong khắp thung lũng vùng Tà In các ngôi đền đều có báu vật. Những vật rất quý bằng vàng, bạc, kim khí, sứ, vải vóc... được dân làng trông coi rất kỹ. Nhưng ngay chính già Ma Cai cũng chỉ biết mang máng do cha ông kể lại là của người Chàm gửi từ nhiều đời trước và các đời sau có nhiệm vụ trông giữ mà thôi.
"Thuở xưa ta thấy trong đền nhiều đồ vật quý lắm nhà báo ạ, nhiều đồ dùng bằng vàng bạc của vua Chàm, có cả kho y phục bằng lụa của người Chàm. Hàng năm vào dịp lễ (tháng Chạp âm lịch) thì các thầy cúng lấy đồ ra mặc xong lại cất trả lại trong kho, nhưng nay thì hết mất rồi. Người có cái bụng tham nhiều thì lấy vàng, bạc, tham vừa thì lấy vải vóc, đĩa, bát... những thứ mà dân làng chúng tôi trông giữ qua bao đời", già Ma Cai nói trong nuối tiếc.
Kho báu chỉ còn là dĩ vãng
Từng là nơi chứa nhiều cổ vật, thế nhưng theo như lời già Ma Cai thì hiện nay trong đền chỉ còn một số bát, đĩa mà thôi, những vật báu đã biến mất khi nào thì không một ai trong làng biết. Và, đền cũng bị bỏ hoang từ nhiều năm nay nên giờ đây chẳng ai quan tâm trong đó còn gì. Theo hướng chỉ đường của già Ma Cai, tôi đã lội bộ tìm lên đền. Đền nằm trên chóp ngọn đồi cuối làng, phải băng qua một đoạn rẫy cà phê, đường đi dựng như mái nhà thì đến đền.
Đường vào đền gần như không có, khắp nơi gai và cây dại phủ kín. Phải loay hoay mãi chúng tôi mới đặt chân được đến đền và đến nơi thì nỗi thất vọng ê chề. Ngôi đền được mệnh danh là nơi từng cất giữ báu vật của vua Chàm giờ chỉ là căn chòi đổ nát, lụp xụp, trên mái tôn cũ kỹ, dưới nền là những miếng ván bị mối ăn rỗ bục. Nhưng dấu tích nơi đây từng diễn ra tế lễ vẫn còn, vì ngôi đền thiết kế cho một gian thờ tự, hai bên là nơi ngồi. Duy nhất ở giữa đền có một sọt bằng sắt, bên trong chứa nhiều bát, đĩa, ấm uống nước bằng sứ, màu lam, bên trên là hai cái mâm gỗ có chân dùng để dâng lễ vật, dù cố kiếm tìm nhưng chúng tôi không thu được gì thêm.
Theo tài liệu của bà Đoàn Bích Ngọ (Phó giám đốc Bảo tàng Lâm Đồng) thì vào năm 1992, đoàn khảo cứu của bà ghi nhận, tại đền Sóp có hai cái bát lớn (trông giống như hai cái nắp) bằng đồng màu đen thường dùng để đựng nước cúng, còn có tới 15 hiện vật bằng gốm sứ (chủ yếu là gốm hoa lam). Đặc biệt trong đó có một tô bên ngoài có những ô viết chữ Hán (có thể là một bài thơ vịnh) và một liễn sứ men trắng vẽ lam. Năm bà Ngọ đến thống kê đồ vật thì các cổ vật quý đã biến mất, không còn các đồ bằng vàng, bạc, lụa là như những nhà khoa học thời Pháp và chế độ cũ mô tả nữa. Và đến nay thì hoàn toàn không còn gì, đền chỉ còn là phế tích.
Một căn cứ lý giải cho sự mất đi của những cổ vật quý thì, theo những người dân trong làng cũng kể lại rằng, những năm 60 của thế kỷ trước, khi Mỹ - Ngụy bình định vùng cao nguyên, quân lính đã tràn vào các ngôi đền cướp phá, lùng sục cổ vật lấy đi những vật quý và trừ lại bát đĩa bằng sứ, những thứ ít giá trị. Độc ác hơn, chúng còn ném bom xăng đốt phá đền. Đền Sóp ngày nay cũng là do người dân dựng lại, những chén, đĩa, bát hiện tại cũng được người dân Làng gom lại mà thôi.
Bẽ bàng trước hiện thực, tôi đành chớp mấy góc ảnh làm kỷ niệm, để mai này khi xem còn biết, nơi đây từng có ngôi đền ẩn chứa những câu chuyện về kho báu của người xưa.
Nếu lấy"vật thiêng" sẽ bị "thần" phạt Theo chúng tôi tìm hiểu thì không có chuyện người dân trong làng, hoặc làng khác tự ý lấy cổ vật làm của riêng. Bởi trong suy nghĩ, người Churu rất tôn sùng và cho rằng đó là vật thiêng, nếu không được "cho phép" của "thần" mà chạm vào thì sẽ bị thần phạt chết. |
Kỳ Anh