Lần đầu tiên được gặp Bác
Chúng tôi tìm đến nhà cô Ngô Thị Tuyết (SN 1951, Hải Châu- Đà Nẵng) - "O du kích dũng sĩ diệt Mỹ" vào những ngày chuẩn bị sinh nhật Bác để được nghe những hồi ức mà người con gái ưu tú được 7 lần gặp Bác. Trong khoảng lặng trong khu vườn đầy những chậu cây cảnh và tiếng chim hót rảnh rang, những ký ức năm nào của O du kích dũng sĩ lại ùa về trong tâm trí của cô.
Sinh ra trong một gia đình nghèo có truyền thống cách mạng ở xã Bình Đông, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, cô bé Tuyết chưa học tròn chữ nhưng sớm có tinh thần giác ngộ cách mạng. Với lòng căm thù giặc sục sôi, năm 13 tuổi cô bé Tuyết đã theo mẹ cùng em trai che giấu, tiếp tế lương thực cho chiến sỹ cách mạng. 15 tuổi làm công tác thăm dò quân địch và thông tin cho cách mạng.
Ngày ấy, năm 1965 giặc Mỹ bắn phá ác liệt tại quê hương Bình Sơn, cô bé 17 tuổi tham gia vào đội quân du kích xã Bình Đông, rồi góp phần vào chiến thắng vang dội tại thôn Vạn Tường (Bình Hải- Bình Sơn, ngày 18/8/1965). Một năm sau đó (1966) cô theo đoàn quân giải phóng ra vành đai quân đội Mỹ đóng tại Chu Lai - Quảng Nam, theo kế hoạch "phá ấp, diệt tề, đánh Mỹ". Trong những lần chiến đấu ấy, O du kích nhỏ Ngô Thị Tuyết tiêu diệt được 50 tên địch và được tặng danh hiệu "dũng sĩ diệt Mỹ".
Năm 1967, Ngô Thị Tuyết được gặp Thủ tướng Chu Ân Lai và được khen ngợi là người con gái Việt Nam nhỏ tuổi nhưng anh hùng.
Trong trận đánh để giải thoát cho ba cán bộ huyện, bị bao vây, cô bé Tuyết lao xuống sông nhằm thu hút sự chú ý quân địch, để cho cán bộ mình rút lui an toàn. Bị thương và bị địch bắt, dù bị tra tấn dã man nhưng cô vẫn giữ vững khí tiết của người cộng sản. Sau đó cô được tổ chức cơ sở, bí mật giải cứu. Cô Tuyết bồi hồi nhớ lại: "Cuối năm 1967, nhận được lệnh ra miền Bắc tham dự "đại hội chiến sỹ thi đua" Trung Trung Bộ, chữa bệnh và học tập. Quãng đường ra Bắc, cô đi mất ba tháng trời, thời gian đó cô gặp các chiến sỹ tuổi còn rất trẻ từ miền Bắc hành quân vào miền Nam chiến đấu. Ai cũng hỏi thăm cô, em ra miền Bắc chắc chắn sẽ được gặp Bác, cho mấy anh gửi lời tới Bác là các anh quyết chí đánh Mỹ đến hơi thở cuối cùng để giải phóng miền Nam, rồi sẽ đón Bác vào thăm".
Nghe các anh gửi gắm vậy, cô Tuyết ứa nước mắt. Sau ba tháng ròng rã, cô đặt chân xuống Thủ đô hôm trước thì hai ngày sau, ngày 17/2/1968 cô được xe đón vào Phủ Chủ Tịch. Cô Tuyết quá bất ngờ và xúc động vì được gặp Bác sớm như vậy. Trước khi vào tiếp chuyện với Bác, anh Vũ Kỳ - thư ký của Bác căn dặn: "Em vào gặp phải kể chuyện vui nghe chưa, không được kể chuyện buồn sẽ làm Bác xúc động, ảnh hưởng đến sức khỏe".
Chị dũng sĩ, em cũng là dũng sĩ
Ước mơ cả đời được gặp Bác đang hiện hữu trước mắt, cô Tuyết xúc động, đôi chân cứ quấn lấy nhau không thể nào bước nổi. Lật đật bước tới nhà Sàn, cô hồi hộp đến nỗi khi đạp bừa, tụt cả hai dây quai dép ra. Khi nhìn qua cửa rèm, thấy một ông già dáng người dong dỏng, mái tóc bạc phơ, bộ râu dài, mặc bộ áo lụa màu mỡ gà, vẻ mặt đôn hậu đang ngồi đọc sách ở bàn làm việc. Nghe tiếng chuông reo ngoài rèm cửa, Bác đứng dậy chờ cô bước vào. Khi đứng trước Bác, vì quá xúc động, cô Tuyết đứng lặng một hồi rồi cất giọng "Bác! Bác! rồi chạy tới ôm chầm lấy Bác mà khóc". Bác ân cần mời cô ngồi xuống rồi hỏi chuyện "Cháu ra Hà Nội lâu chưa? Đi đường có vất vả không?”... Bác khen "Cháu còn nhỏ mà đánh giặc giỏi quá".
Cô Tuyết khóc trong niềm hạnh phúc. Bác hỏi thăm chuyện về gia đình, đồng bào ở quê, vùng bị địch chiếm... rồi Bác giục cô kể cho Bác chuyện ba mẹ cô hy sinh, chuyện anh trai nằm xuống khi đi công tác, chuyện em Ngô Nết "dũng sĩ diệt Mỹ"... Thấy Bác rơm rớm nước mắt, anh Vũ Kỳ ra hiệu cho cô không kể chuyện buồn cho Bác. Rồi Bác khen "Chị dũng sĩ, em cũng là dũng sĩ. Chị dũng sĩ trước, em dũng sĩ sau, cả nhà các cháu đều anh dũng đánh Mỹ". Rồi cô cũng không quên gửi lời của các anh bộ đội khí thế sục sôi đang hành quân vào Nam, không sợ gian khổ, quyết chí giải phóng miền Nam ruột thịt...
Giờ đã cao tuổi nhưng những ký ức được gặp Bác không thể phai mờ trong tâm trí của O du kích dũng sĩ năm nào.
Nhớ mãi "Lời Bác dặn trước lúc đi xa"
Những lần sau đó, mỗi lần đi cùng đoàn Chính phủ, phụ nữ tại các nước Trung Quốc, Cu Ba, Pháp để tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ đối với nhân dân Việt Nam, và thời gian đang học ở trường bổ túc văn hóa Từ Hồ (Hưng Yên), cô Tuyết đều được Bác gọi đến nói chuyện vào mỗi dịp chủ nhật và những ngày lễ của đất nước. Mỗi lần như thế cô thấy Bác thật gần gũi như người ông, người cha của mình.
Thời kỳ Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc lần 1, lần 2 (1965 - 1972) cả miền Bắc chuyển sang thời chiến, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược; vừa chống chiến tranh phá miền Bắc vừa làm nghĩa vụ hậu phương đối với miền Nam. Trên bầu trời miền Bắc gầm rú bởi tiếng máy bay oanh toạc của Mỹ. Bác căn dặn: "Cháu đi học phải đội mũ rơm, khi nghe tiếng báo động có máy bay địch thì nhanh chóng vào hầm ẩn nấp, không được để bị thương nghe chưa".
Rồi Bác dặn thêm "Đi học phải thật giỏi, ở trong dân thì biết làm công tác dân vận, biết giúp đỡ dân vì dân mình con nghèo, còn khổ cháu!". Cứ mỗi lần được gặp Bác, cô lại được hỏi chuyện, ăn cơm cùng Bác. Cô nhớ như in lần ăn cơm với Bác: "Bác gắp thức ăn cho cô rồi bảo phải ăn no để học tập, sau này vào giúp đồng bào miền Nam". Chị kể, khi thấy mình ăn chén cơm chưa sạch, đã định thôi không dùng nữa mà đặt xuống, Bác bảo: "Cháu cố gắng ăn cho hết những hạt cơm còn lại trong chén, đồng bào mình còn khổ lắm, chúng ta không nên lãng phí...".
Khoảng hai tháng, lần đó, Bác ốm nằm trong bệnh viện, dù da Bác vẫn hồng hào như trước, nhưng sức khỏe thì yếu hẳn. Khi thấy Bác đang nằm cô chạy lại cầm tay Bác mà nước mắt lưng tròng... Bác bảo "Sao gặp Bác mà lại khóc?, rồi Bác bảo anh Vũ Kỳ đỡ ngồi dậy rồi hỏi chuyện "Cháu học hành có tốt không, anh em ở Nam ra học có được không...? Ngày lễ, ngày tết các cháu ở dưới đó (Hưng Yên) có nhớ nhà không?” dù sức khỏe không tốt, mà Bác vẫn lo toan tỷ mỉ đến những người từ miền Nam ra học ở miền Bắc". Kể đến đây cô Tuyết dịu giọng, dòng nước mắt tuôn dài "Không ngờ đó là lần cuối cùng cô được gặp Bác". Sau lần gặp tại bệnh viện, hai ngày sau cô nhận được tin báo Bác mất, ai cũng bàng hoàng, cô khóc như một đứa trẻ. Cô nhớ lại ngày Bác mất, trời Hà Nội mưa tầm tã, lòng người khôn tiếc vị cha già đáng kính của dân tộc. Cô đọc bốn câu thơ của Nhà thơ Tố Hữu. Trong giọng đọc vẫn run run bồi hồi, thương nhớ như thuở nào.
"Suốt mấy đêm rày, đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa
Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn rau, mấy gốc dưa..."
Mong một lần được ra Thủ đô viếng Bác Từ lời dặn của Bác, cô Tuyết đã học trường Công đoàn Trung ương và sau làm việc tại Công đoàn Công ty Điện lực 3. Hiện nay, cô đã về hưu, vui vầy cùng con cháu. Chú Ngô Nết, em trai, cô "Dũng sĩ diệt Mỹ" tí hon được gặp Bác Hồ năm nào, giờ cũng đã đứng tuổi. Cô Tuyết khóc mỗi lần nhớ về những ký ức được gặp và trò chuyện cùng Bác, rồi cô bùi ngùi "Cô ân hận mãi không xin được chụp chung với Bác, giờ chỉ còn lại trong ký ức thôi". Mỗi lần gia đình con cháu đông đủ, cô lại kể chuyện về những lần cô du kích dũng sĩ năm nào được vinh dự, hạnh phúc được ngồi trong vòng tay của Người, nghe Bác căn dặn, hỏi han, chăm sóc…". Cô cũng muốn mình một lần được ra Thủ đô viếng Bác, nhớ lại gốc xoài, ao cá…cả chiếc nhà sàn đơn sơ mà hơn 50 năm trước mình được lần đầu gặp Bác - Người Cha già của dân tộc. |
Hồng Sơn