Trong Tam quốc diễn nghĩa của nhà văn La Quán Trung, khi nói về cao thủ thời Tam quốc, người ta thường nhớ ngay về Quan Vũ, Lã Bố, Trương Phi, Triệu Vân... nhưng ít ai biết rằng hai quân chủ khét tiếng thời bấy giờ là Tào Tháo và Lưu Bị cũng là những cao thủ võ học.
Tào Tháo thân mang tuyệt kỹ
Tào Tháo (155-220) là nhà chính trị, quân sự kiệt xuất cuối thời Đông Hán đầu thời Tam quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người đặt nền móng hình thành Tào Ngụy thời Tam quốc.
Quyển Dị đồng tạp ngữ của tác giả thời Đông Tấn Tôn Thịnh có ghi lại sự tích Tào Tháo từng đơn thương độc mã xông vào... phòng ngủ của quan Trung thường thị Trương Nhượng (cận thần của Hán Linh Đế) giữa đêm khuya.
Trương Nhượng cho rằng Tào Tháo có mưu đồ bất chính, bèn lệnh vệ sĩ tấn công bắt Tào. Nhưng Tào Tháo “múa thương bảo vệ bản thân đột phá vòng vây, nhảy tường trốn thoát”.
Trương Nhượng chính là một trong “Thập thường thị” nổi tiếng triều Đông Hán, ngay cả Quốc cữu Hà Tiến cũng mất mạng dưới tay Nhượng.
Cấm vệ quân dưới quyền Trương Nhượng đều thuộc hàng “cực phẩm”, cho dù Tào Tháo có dùng thủ đoạn tinh vi hơn thì việc ám sát Nhượng cũng cầm chắc thất bại.
Dù vậy, việc Tào một mình đột phá vòng vây của cấm vệ triều đình và đào thoát thành công, đủ thấy bản lĩnh võ nghệ của Ngụy Vương không tầm thường.
Trong một lần khác, khi phải trốn khỏi kinh thành, tới Thành Cao nương nhờ nhà Lưu Bá Xa. Chính vì lòng nghi kỵ quá nặng của mình, Tào Tháo đã giết chết cả nhà họ Lưu. Riêng câu chuyện này đã có 3 “phiên bản”. Tuy mỗi phiên bản có mô tả một khác, nhưng đều thống nhất Tào Tháo đích thực đã “đại khai sát giới”, giết chết rất nhiều người trong vụ thảm sát Lữ gia. Đây cũng được xem là minh chứng cho võ nghệ của Tào.
Trong giai đoạn thảo phạt Đổng Trác, quân Tào liên tục thất bại, lực lượng tổn thất nghiêm trọng. Bản thân Tào Tháo cũng bị thương và phải cùng Hạ Hầu Đôn chạy về Dương Châu chiêu binh mãi mã.
Thứ sử Dương Châu Trần Ôn và Thái thú Đơn Dương Chu Hân cho Tào 4.000 quân, song giữa đường xảy ra tạo phản.
Phản quân hỏa thiêu doanh trại Tào Tháo trong đêm, buộc Tào Tháo liều chết đột phá vòng vây, giết hàng chục loạn quân.
Năm 193, Tào Tháo nghi ngờ Từ Châu mục Đào Khiêm giết cha mình là Tào Tung, bèn đem quân “huyết tẩy Từ Châu”.
Điều này khiến mưu sĩ Trần Cung bất mãn và bỏ Tào, sau đó cùng Trương Mạc ở Duyện Châu tôn Lã Bố làm Thứ sử Duyện Châu, giao cho 10 vạn quân đánh Tào.
Lã Bố tập kích đại bản doanh của Tào Ngụy tại Duyện Châu là Bộc Dương, buộc Tào rút quân ở Từ Châu về đối phó với Bố.
Trong cuộc chiến này, Tào Tháo bị các tướng Cao Thuận, Trương Liêu, Tạng Bá, Ngụy Tự, Hầu Thành... vây khốn.
Tào Ngụy mặc dù có các tướng Tào Hồng, Vu Cấm, Nhạc Tiến, Điển Vi... tọa trấn nhưng cũng rơi vào trùng vây trước 10 vạn đại quân của Lã Bố.
Tam quốc diễn nghĩa mô tả: “Chúng tướng tử chiến, Tháo tiên phong xung trận”. Về sau, Tào Tháo bại trận, song thêm một lần nữa ông đơn thương độc mã thoát khỏi sự bao vây của Lã Bố.
Đối với chuyện Tào Tháo nhiều lần phá vây “thập tử nhất sinh”, có học giả hiện đại dùng câu thơ trong bài Hiệp khách hành của Lý Bạch để bình về bản lĩnh cao siêu của ông - “Thập bộ sát nhất nhân, thiên lý bất lưu hành” (10 bước giết 1 người, giết tới ngàn dặm).
Ngoài ra trong Tam quốc chí - Ngụy thư có nói, Tào Tháo tài nghệ tuyệt luân, bắn cung bách phát bách trúng, tay không địch mãnh thú. Tào từng bắn được 63 con chim trĩ trong một cuộc đi săn ở Nam Bì.
Còn trong Tam quốc diễn nghĩa mô tả, ngay trước đại chiến Xích Bích chính là rằm tháng Giêng, Tào Tháo lệnh bày rượu ở đại doanh.
“Rượu vào lời ra”, Tào Tháo đứng trên mũi thuyền cuồng vọng nói: “Ta phá Hoàng Cân, bắt Lã Bố, diệt Viên Thuật, thu phục Viên Thiệu, dấn thân phương Bắc, bình định Liêu Đông, tung hoành thiên hạ, không uổng chí trượng phu”.
Ngay lúc Tào Tháo cao hứng, Thứ sử Dương Châu Lưu Phức “nói lời chẳng lành”, lập tức khiến Tào Tháo đại nộ, “một tay cầm sóc (giáo dài), đâm chết Lưu Phức”.
Điều đáng nói là, trong cơn say, Tào Tháo vẫn đủ khả năng múa trọng binh dài 6 tấc (2m) chỉ bằng một tay mà đâm chết Lưu Phức, chứng minh ông không chỉ văn tài xuất chúng, mà đẳng cấp võ nghệ cũng vô cùng đáng nể.
Lưu Bị giỏi kiếm pháp
Lưu Bị (161 – 223) tự là Huyền Đức, người quận Trác thuộc U Châu, là một vị thủ lĩnh quân phiệt, hoàng đế khai quốc nước Thục Hán thời Tam quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Do ảnh hưởng quá lớn từ tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, nên nhiều người cho rằng Lưu Bị là một người nhu nhược, không có tài năng gì, nhờ may mắn có các cận thần tài giỏi mà ông mới dựng được cơ nghiệp. Trên thực tế, ghi chép của bộ chính sử Tam quốc chí cho thấy Lưu Bị là một vị tướng có tài cầm quân, ứng phó linh hoạt, nhất là khả năng nhìn thấu nội tâm, thu phục nhân tài và khiến họ một lòng trung thành với mình, cả Tào Tháo cũng đánh giá rất cao tài năng của ông.
Kỳ thực, những người luyện võ đều biết câu: “Luyện đao trăm ngày, luyện thương ngàn ngày, luyện kiếm vạn ngày”.
Câu đó có nghĩa là luyện đao thương thì dễ, luyện kiếm rất khó. Người trong võ lâm lấy việc luyện đao thương làm căn bản. Còn riêng về kiếm thuật, ai tinh thông luyện thành rồi thì đều là cao thủ. Một cao thủ dùng kiếm phải có nhiều phẩm chất: Sự kiên nhẫn, quyết tâm, sự bình tĩnh đến cao độ và trí tuệ. Người đó lại cần có một nội tâm trong sạch và cảm giác cực kỳ nhạy cảm, đồng thời trong tích tắc phải có phản ứng thích đáng, kiếm đồng thời hòa làm một với tâm hồn kiếm thủ.
Một kiếm sĩ còn cần có sức lực mạnh mẽ, tay nắm kiếm cần phải chắc và có lực, đặc biệt là cổ tay càng cần phải cứng rắn như sắt thép đúc thành. Trong khi đó Lưu Bị sử dụng vũ khí là song kiếm. Trong võ lâm, sử dụng được song kiếm không có mấy người cho nên có thể nói rằng Lưu Bị rất có thể là một cao thủ.
Trên thực tế, Lưu Bị từng nhiều lần một mình phá vòng vây của địch để bảo toàn tính mạng.
Ngoài ra, trong đêm tân hôn với Tôn Thượng Hương (em gái Tôn Quyền), Lưu Bị có màn đấu kiếm khá thú vị với Tôn Thương Hương. Ở trận chiến này, Lưu Bị tự nhận mình “không giỏi gì, chỉ giỏi kiếm pháp”. Điều đó như chứng minh cho bản lĩnh phi thường của Lưu Bị.
Quốc Tiệp (t/h)