Gia Cát Lượng tự là Khổng Minh, hiệu Ngọa Long tiên sinh, được coi là một nhà chính trị, nhà ngoại giao cự phách, đồng thời là một trong những chiến lược gia kiệt xuất và vĩ đại bậc nhất trong thời Tam Quốc.
Nhắc đến Gia Cát Lượng, quả thật khó mà kể hết được những mưu kế “quỷ khóc thần sầu” của ông từng khiến biết bao anh hùng thời Tam Quốc phải nghiêng mình nể phục vì tài thao lược phi thường của ông. Mưu kế nổi tiếng nhất của ông chính là “Không thành kế” nổi tiếng, chỉ dùng một tiếng đàn mà có thể đẩy lùi 15 vạn quân binh nước Ngụy. Đây quả đúng là tiếng đàn vô tiền khoáng hậu.
Trong Tam quốc diễn nghĩa, bối cảnh diễn ra sự kiện này là khi Gia Cát Lượng thống lĩnh binh mã nước Thục, Bắc phạt lần thứ nhất. Quân Thục liên tiếp đại thắng quân Ngụy, bắt sống phò mã nước Ngụy là Hạ Hầu Mậu, đả bại Đô đốc Ngụy quốc Tào Chân, thu nạp danh tướng Khương Duy.
Cùng khi đó Mạnh Đạt ở Tân Thành mưu phản biến nhà Ngụy, định cất binh đánh úp Ngụy đế Tào Duệ. Ngụy quốc lâm nguy, Ngụy Đế cấp tốc trọng dụng lại Tư Mã Ý.
Ý nhận lệnh của vua liền đưa binh từ Uyển Thành kéo tới Tân Thành, trong ứng ngoài hợp đánh giết Mạnh Đạt rồi dẫn quân tiếp ứng cho Tào Chân.
Tư Mã Ý xuất quân, nhất định đến Nhai Đình, đây là con đường yết hầu. Nhai Đình tuy nhỏ nhưng rất quan trọng, vì đây là con đường vận lương duy nhất của quân Thục, nếu mất Nhai Đình, quân Gia Cát Lượng có nguy cơ sụp đổ hoàn toàn, vì vậy phải có trọng binh trấn giữ, tức phải có đại tướng kiêu dũng thiện chiến đứng ra gánh vác trách nhiệm nặng nề này.
Bất ngờ Mã Tốc xin đi, khiến cả trướng chết lặng, ai nấy đều sửng sốt. Vì Mã Tốc xưa nay chỉ hiến kế trong trướng, chưa từng rong ruổi xa trường, nên khó mà có thể tin tưởng giao vác trọng nhiệm này. Tuy nhiên, Mã Tốc trong đêm đến trướng của Gia Cát Lượng khóc lóc van xin được vì nước lập công, nguyện dâng sở học một đời để thực hiện nguyện ước này, và lập quân lệnh trạng để đảm bảo - nếu thất thủ sẽ chém cả nhà.
Ngày hôm sau Gia Cát Lượng quyết định sai tiên phong Mã Tốc, phó tướng Vương Bình ra chiếm Nhai Đình bảo vệ sườn cũng là đường vận lương huyết mạch của Thục quân. Thay vì theo lời Vương Bình là lập đồn chiếm giữ cửa ải thì Mã Tốc cậy mình thông hiểu binh pháp đã kéo binh lên đóng trên một quả núi đất, định dồn quân Thục vào chỗ chết, từ đó toàn quân sẽ quyết tử để đại phá quân Ngụy.
Đây giống như là kế “bội thuỷ nhất chiến” (bày trận tựa sông) mà Hàn Tín năm xưa đã dùng. Sau khi chinh phạt nước Ngụy, tướng quân Hàn Tín nhận lệnh chinh phạt nước Triệu. Tuy nhiên quân Triệu có tới 20 vạn hùng binh, còn quân Hán chỉ có 3 vạn. Hàn Tín đã nghĩ ra một kế, sai quân vượt sông đóng quân cách ải Tỉnh Hình (quân Triệu) 30 dặm. Đây là điều đại kỵ trong binh pháp quân gia, một khi thất bại sẽ không có đường lùi phía sau.
Rồi Hàn Tín hôm sau đưa quân đến đánh ải, quân Triệu thấy vậy dốc quân chủ lực ra ngênh chiến và đuổi đánh Hàn Tín tới chiến luỹ ven sông.
Lúc này quân Hán đã không còn đường lui, chiến đấu hoặc là chết khi đã bị dồn vào đường cùng, khiến quân Hán chống trả anh dũng chưa từng có, quân Triệu sợ hãi bỏ chạy và đại bại.
Vì vậy, Mã Tốc cũng nghĩ rằng, nếu dùng kế này, thì quân ta sẽ chiến thắng quân địch giống như Hàn Tín chiến thắng quân Triệu hùng mạnh năm xưa vậy.
Chẳng ngờ Tư Mã Ý bủa vây núi, rồi chặt đứt đường nước của quân Thục. Thục binh đại loạn. Mã Tốc may nhờ Vương Bình cố chết cứu mới chạy thoát về Hán Trung được.
Sau khi Mã Tốc để mất Nhai Đình, Gia Cát Lượng chỉ còn có 2500 quân sĩ đóng ở huyện Tây Thành. Bỗng có thám mã phi về báo: “Tư Mã ý mang mười lăm vạn đại quân đang kéo đến Tây Thành”. Lúc ấy, không có vị đại tướng nào ở bên Gia Cát Lượng, mà chỉ có một tốp quan văn. Nghe tin này, các quan đều tái mặt đi vô cùng lo sợ. Gia Cát Lượng bước lên mặt thành quan sát, quả nhiên xa xa bụi cuốn mịt mờ, quân Ngụy đang xông tới Tây Thành. Gia Cát Lượng lập tức truyền lệnh:
“Đem dấu hết cả cờ quạt đi, binh lính ai nấy đều vào giữ lấy chòi gác tuần tiễu của mình trên mặt thành, nếu có kẻ nào tự ý ra vào cổng thành hoặc nói lớn, sẽ bị giết. Mở rộng hết bốn cổng thành ra, ở mỗi cổng thành lấy hai chục người cải trang làm dân thường, quét ở đường phố. Nếu quân Ngụy đến, không được nhốn nháo, ta khắc có mưu kế để đối phó”.
Truyền lệnh xong Gia Cát Lượng khoác đạo bào lông hạc, vấn khăn nhiễu trên đầu, dẫn hai tiểu đồng mang theo một cây đàn, đi lên mặt thành, đốt hương gảy đàn.
Nghe thám báo về báo lại tình hình, Tư Mã Ý ra lệnh cho quân sĩ lập tức dừng lại, tự phi ngựa lên phía trước nhìn lên, quả nhiên thấy Gia Cát Lượng ở trên mặt thành vẻ mặt tươi cười ngồi tựa lan can, đốt hương gảy đàn, bên trái có một tiểu đồng, tay bưng một thanh gươm báu, bên phải cũng có một tiểu đồng tay cầm phất trần. Trong ngoài cổng thành chỉ có chừng hai chục người dân thường, cắm cúi quét đường cứ như thể không có ai ở bên mình. Sau khi nhìn thấy thế, Tư Mã ý nghi ngờ rằng trong thành có mai phục, vội vàng ra lệnh lui binh.
Tư Mã Chiêu (con Tư Mã Ý) trong Tam quốc diễn nghĩa 1996 bảo: “Ngộ nhỡ Gia Cát Lượng không có quân, bày ra thế thì sao?” Tư Mã Ý nói rằng: “Tiếng đàn tranh này mạnh bạo giống như sóng ba đào, cuồn cuộn nổi lên, tựa như là có bá vạn hùng binh… giống như là dòng suối róc rách, nếu như không là người tinh ý chắc chắn không thể ngờ được”.
Tư Mã Chiêu lại hỏi: “Thưa cha, chỉ là mấy sợi dây đàn, có thể truyền thần tới vậy sao chứ?” Tư Mã Ý trả lời: “Tâm loạn, tiếng đàn sẽ rối loạn, tâm tịnh, tiếng đàn sẽ yên tịnh thôi, tâm loạn thì âm loạn, tâm tịnh thì âm sắc. Nghe Gia Cát Lượng đánh đàn, nhìn thấy rõ tâm can hắn, ta nghe được tiếng đàn của Gia Cát Lượng là một vinh hạnh rồi”, sau đó lập tức truyền lệnh rút quân, tháo lui khỏi Tây Thành.
Tuy nhiên khi xem bộ phim Tam quốc diễn nghĩa 2010, thì trong tiếng đàn của Gia Cát Lượng có rất nhiều thâm ý. Quân Ngụy rút chạy rồi, Gia Cát Lượng thốt lên: “Trời xanh cứu ta, Tư Mã Ý thực là hiểu âm luật”. Về phần Tư Mã Ý về đến trại, kéo ghế cho Tư Mã Sư ngồi, nghe con nói qua tình hình Tây Thành rồi bảo: “Ta thua Khổng Minh ở số trời, số trời không giúp ta”.
Vậy rốt cuộc “trời xanh” đã giúp Gia Cát Lượng điều gì? Và “số trời” đã không giúp Tư Mã Ý điều gì? Cái này chắc chắn là có liên quan đặc biệt đến tiếng đàn mà Gia Cát Lượng đánh. Qua tiếng đàn, bằng âm luật, Gia Cát Lượng đã chuyển đến Tư Mã Ý thông điệp rất rõ ràng: “Nhà Ngụy ba đời liền nghi ngờ, cảnh giác ông. Sở dĩ ông được làm nguyên soái thống lĩnh ba quân là bởi tôi cầm binh nước Thục công phá Ngụy Quốc. Tôi chết rồi, mối lo về Thục quân không còn, Ngụy Đế tất sẽ khiến ông không toàn mạng sống. Xưa nay thỏ khôn chết thì chó săn bị nấu, chim bay cao chết thì cung mạnh bị cho vào bếp, đó là lẽ thường”.
Đây là cảnh giới tư tưởng mà chỉ hai nhà dụng binh xuất chúng mới có thể hiểu, người thường không đạt đến cái cảnh giới này được, nên bề ngoài chỉ nhìn thấy kết quả của hiện thực giả, còn nguyên nhân sâu xa thì chỉ có 2 người đó hiểu được mà thôi. Đây cũng là một trong những điều bí ẩn nhất trong các kế sách của Gia Cát Lượng về nghệ thuật dụng binh thần sầu của mình.
Là một người có tài dụng binh như thần, rất có thể Tư Mã Ý đã sớm nhìn ra “không thành kế”, nhưng cái hay của Gia Cát Lượng là đã sử dụng nó một cách vô cùng khéo léo cùng với thông điệp sâu sắc gửi gắm qua tiếng đàn của mình. Ông đã thực hiện thành công cuộc chiến tâm lý với Tư Mã Ý, qua đó đuổi khéo được 15 vạn quân Ngụy, bảo vệ được Tây Thành.
Ở đây cũng phải nói thêm rằng, người đánh đàn (Khổng Minh) là một bậc cao nhân trăm năm khó gặp. Ông bình sinh từ bé là người tu Đạo, được sư phụ truyền thụ tinh hoa trong môn của mình, tâm tính đã đạt đến cảnh giới rất cao. Sống cuộc đời ẩn dật nơi rừng sâu núi thẳm, quanh năm chỉ thấy trò chuyện với các bạn tâm giao, uống rượu, ngâm thơ, bình luận thiên hạ. Mãi cho đến khi Lưu Bị ba lần thăm lều tranh mới tỏ nổi tấm chân tình làm động lòng người tu Đạo - Gia Cát Lượng. Nói là làm động lòng người tu Đạo, nhưng sự thật là Lượng sớm biết được thiên ý rằng đến lúc mình phải xuất sơn để hiệp trợ Lưu Bị thành lập nhà Thục Hán, tạo thế chân vạc thời Tam Quốc.
Quốc Tiệp