Trong Tam quốc diễn nghĩa, bối cảnh diễn ra sự kiện này là khi Gia Cát Lượng thống lĩnh binh mã nước Thục, Bắc phạt lần thứ nhất. Quân Thục liên tiếp đại thắng quân Ngụy, bắt sống phò mã nước Ngụy là Hạ Hầu Mậu, đả bại Đô đốc Ngụy quốc Tào Chân, thu nạp danh tướng Khương Duy.
Cùng khi đó Mạnh Đạt ở Tân Thành mưu phản biến nhà Ngụy, định cất binh đánh úp Ngụy đế Tào Duệ. Ngụy quốc lâm nguy, Ngụy Đế cấp tốc trọng dụng lại Tư Mã Ý.
Ý nhận lệnh của vua liền đưa binh từ Uyển Thành kéo tới Tân Thành, trong ứng ngoài hợp đánh giết Mạnh Đạt rồi dẫn quân tiếp ứng cho Tào Chân.
Tư Mã Ý xuất quân, nhất định đến Nhai Đình, đây là con đường yết hầu. Nhai Đình tuy nhỏ nhưng rất quan trọng, vì đây là con đường vận lương duy nhất của quân Thục, nếu mất Nhai Đình, quân Gia Cát Lượng có nguy cơ sụp đổ hoàn toàn, vì vậy phải có trọng binh trấn giữ, tức phải có đại tướng kiêu dũng thiện chiến đứng ra gánh vác trách nhiệm nặng nề này.
Bất ngờ Mã Tốc xin đi, khiến cả trướng chết lặng, ai nấy đều sửng sốt. Vì Mã Tốc xưa nay chỉ hiến kế trong trướng, chưa từng rong ruổi xa trường, nên khó mà có thể tin tưởng giao vác trọng nhiệm này. Tuy nhiên, Mã Tốc trong đêm đến trướng của Gia Cát Lượng khóc lóc van xin được vì nước lập công, nguyện dâng sở học một đời để thực hiện nguyện ước này, và lập quân lệnh trạng để đảm bảo - nếu thất thủ sẽ chém cả nhà.
Ngày hôm sau Gia Cát Lượng quyết định sai tiên phong Mã Tốc, phó tướng Vương Bình ra chiếm Nhai Đình bảo vệ sườn cũng là đường vận lương huyết mạch của Thục quân. Thay vì theo lời Vương Bình là lập đồn chiếm giữ cửa ải thì Mã Tốc cậy mình thông hiểu binh pháp đã kéo binh lên đóng trên một quả núi đất, định dồn quân Thục vào chỗ chết, từ đó toàn quân sẽ quyết tử để đại phá quân Ngụy.
Đây giống như là kế “bội thuỷ nhất chiến” (bày trận tựa sông) mà Hàn Tín năm xưa đã dùng. Sau khi chinh phạt nước Ngụy, tướng quân Hàn Tín nhận lệnh chinh phạt nước Triệu. Tuy nhiên quân Triệu có tới 20 vạn hùng binh, còn quân Hán chỉ có 3 vạn. Hàn Tín đã nghĩ ra một kế, sai quân vượt sông đóng quân cách ải Tỉnh Hình (quân Triệu) 30 dặm. Đây là điều đại kỵ trong binh pháp quân gia, một khi thất bại sẽ không có đường lùi phía sau.
Rồi Hàn Tín hôm sau đưa quân đến đánh ải, quân Triệu thấy vậy dốc quân chủ lực ra nghênh chiến và đuổi đánh Hàn Tín tới chiến luỹ ven sông.
Lúc này quân Hán đã không còn đường lui, chiến đấu hoặc là chết khi đã bị dồn vào đường cùng, khiến quân Hán chống trả anh dũng chưa từng có, quân Triệu sợ hãi bỏ chạy và đại bại.
Vì vậy, Mã Tốc cũng nghĩ rằng, nếu dùng kế này, thì quân ta sẽ chiến thắng quân địch giống như Hàn Tín chiến thắng quân Triệu hùng mạnh năm xưa vậy.
Chẳng ngờ Tư Mã Ý bủa vây núi, rồi chặt đứt đường nước của quân Thục. Thục binh đại loạn. Mã Tốc may nhờ Vương Bình cố chết cứu mới chạy thoát về Hán Trung được.
Sau khi Mã Tốc để mất Nhai Đình, Gia Cát Lượng chỉ còn có 2500 quân sĩ đóng ở huyện Tây Thành. Bỗng có thám mã phi về báo: “Tư Mã Ý mang mười lăm vạn đại quân đang kéo đến Tây Thành”. Lúc ấy, không có vị đại tướng nào ở bên Gia Cát Lượng, mà chỉ có một tốp quan văn. Nghe tin này, các quan đều tái mặt đi vô cùng lo sợ. Gia Cát Lượng bước lên mặt thành quan sát, quả nhiên xa xa bụi cuốn mịt mờ, quân Ngụy đang xông tới Tây Thành. Gia Cát Lượng lập tức truyền lệnh:
“Đem giấu hết cả cờ quạt đi, binh lính ai nấy đều vào giữ lấy chòi gác tuần tiễu của mình trên mặt thành, nếu có kẻ nào tự ý ra vào cổng thành hoặc nói lớn, sẽ bị giết. Mở rộng hết bốn cổng thành ra, ở mỗi cổng thành lấy hai chục người cải trang làm dân thường, quét ở đường phố. Nếu quân Ngụy đến, không được nhốn nháo, ta khắc có mưu kế để đối phó”.
Truyền lệnh xong Gia Cát Lượng khoác đạo bào lông hạc, vấn khăn nhiễu trên đầu, dẫn hai tiểu đồng mang theo một cây đàn, đi lên mặt thành, đốt hương gảy đàn.
Nghe thám báo về báo lại tình hình, Tư Mã Ý ra lệnh cho quân sĩ lập tức dừng lại, tự phi ngựa lên phía trước nhìn lên, quả nhiên thấy Gia Cát Lượng ở trên mặt thành vẻ mặt tươi cười ngồi tựa lan can, đốt hương gảy đàn, bên trái có một tiểu đồng, tay bưng một thanh gươm báu, bên phải cũng có một tiểu đồng tay cầm phất trần. Trong ngoài cổng thành chỉ có chừng hai chục người dân thường, cắm cúi quét đường cứ như thể không có ai ở bên mình. Sau khi nhìn thấy thế, Tư Mã ý nghi ngờ rằng trong thành có mai phục, vội vàng ra lệnh lui binh.
Tác giả thực sự của “Không thành kế”
Sử sách Trung Quốc có ghi chép về “Không thành kế” nhưng tác giả không phải là Khổng Minh và sự kiện có thật này cũng diễn ra sau thời Tam quốc tới 200 năm. Chính xác, "Không thành kế" trong lịch sử xảy ra tại chiến tranh Lưu Tống-Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều.
Năm 430, Tống Văn Đế sai Đáo Ngạn Chi mang quân bắc phạt. Tháng 7 quân Tống tới Tu Xương, quân Ngụy ở 4 thành Cao Ngao, Hoạt Đài, Hổ Lao và Kim Dung ít quân nên chủ động rút lui. Ngạn Chi thu 4 trấn rồi tiến đến bến Linh Xương và chia quân tiến sang Đồng Quan phía tây.
Tháng 10 cùng năm, Bắc Ngụy ra quân phản công, nhanh chóng lấy lại được Lạc Dương và Hổ Lao. Tháng 11, Tống Văn Đế lại sai Đàn Đạo Tế đi tiếp ứng. Nhưng viện binh của Đàn Đạo Tế chưa đến nơi thì Đáo Ngạn Chi đã bị mất 2 thành nên hoảng sợ, hạ lệnh đốt thuyền, bỏ giáp nặng rút về Bành Thành.
Quân Ngụy đuổi theo đến Lịch Thành, Thái thú Tế Nam của Lưu Tống là Tiêu Thừa Chi chỉ có vài trăm quân, liệu chừng không thể chống lại đại quân Ngụy. Tiêu Thừa Chi trong lúc nguy cấp bèn áp dụng "không thành kế", cho mở toang cổng thành. Quân Ngụy sợ có phục binh không dám vào thành. Nhờ vậy Tiêu Thừa Chi giữ thành được an toàn.
Các nhà sử học Trung Quốc cho rằng chính mưu kế này của Tiêu Thừa Chi gợi ý cho La Quán Trung ghép vào chuyện không thành kế của Gia Cát Lượng lừa Tư Mã Ý lúc ra Kỳ Sơn trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, còn trong những cuộc đối đầu giữa Gia Cát Lượng và Tư Mã Ý không hề tồn tại sự kiện này.
Thực ra, Gia Cát Lượng đúng là đã có lần ngồi trước doanh trại quân Tào để chơi cờ, xung quanh chỉ có mấy tiểu đồng phục vụ, quân Ngụy sợ phục binh nên không dám ra chứ không phải là Gia Cát Lượng ngồi trong thành gảy đàn khi quân Ngụy của Tư Mã Ý tấn công.
Video: Không thành kế của Khổng Minh trong phim Tam quốc diễn nghĩa.
Quốc Tiệp